CHỨNG CAN HUYẾT HƯ

Khái niệm

Chứng Can huyết hư là tên gọi khái quát cho những chứng trạng do Can huyết bất túc, gân mạch mất nuôi dưỡng, xuất hiện gân mạch co rút, mắt nhìn mọi vật lờ mờ, móng tay chân gẫy ròn, chất lưỡi nhợt, mạch Huyên Tế v.v. Bệnh phân nhiều do mất huyết quá nhiều hoặc nguồn sinh ra huyết bất túc và ốm lâu bị hao thương Can huyết gây nên.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là sác mặt xanh nhợt hoặc vàng bủng, thể trạng gày còm, hai mắt khô rít, quáng gà hoặc nhìn vật lờ mờ, hoa mát ù tai, tay chân tê dại, hoặc gân mạch co rút, móng tay chân không tươ, đối với phụ nữ có thể thấy hành kinh lượng ít sác nhợt thậm chí bế kinh, miệng môi và chất lưỡi tráng nhợt, mạch Tế hoặc Huyền Tế.

Chứng Can huyết hư thường gặp trong các bệnh Hư lao, Huyễn vậng, Bất mị, Ma mộc, Tước manh, Kinh nguyệt không điều, Thống kinh v.v.

Cần chuẩn đoán phân biệt với các chứng Tâm huyết hư; chứng Huyết hư sinh phong, chứng Can âm hư và chứng Can uất huyết hư.

Phân tích

Chứng Can huyết hư có thể gặp trong nhiều loại tật bệnh, biểu hiện lâm sàng không hoàn toàn giống nhau, cần phân tích

; - Trong bệnh Kinh nguyệt không điều của Phụ nữ xuất hiện chứng Can huyết hư tì có đặc điểm là hành kinh ra muộn, lượng, ít, chất loãng, thậm chí Bế kinh; đây là do Can huyết bất túc, huyết hải rỗng không thể đầy đủ theo đúng thời gian và định nên thành bệnh, điều trị nên theo phép bổ Can dưỡng huyết điều kinh, chọn dùng bài Tiểu đoanh tiễn (Căn Nhạc Mằn thư).

Nếu Can huyết hư gặp trong bệnh Thống kinh có đặc điểm là khi đang hành kinh hoặc sau khi hành kinh, bụng dưới đau âm ỉ liên miên, ưa xoa bóp, lưng gối yếu, chóng mặt ù tai, mạch Trầm Huyền mà Tế, bệnh phần nhiều do Can huyết bất túc, tổn hại tới Thần kinh,rhai mạch Xung Nhâm đều hư, Bào mạch mất sự nuôi dưỡng gây nên bệnh; điều trị nên điều bổ Can Thận, dùng bài Điều canh tán (Ph thánh chủ nữ khoa).

Trong bệnh Hư lao gặp chứng Can huyết hư, biểu hiện lâm sàng có những đặc điểm sắc mặt không tươi, thể trạng gầy còm, chân tay mình mẩy tê dại hoặc gân mạch co rút, móng tay chân khô ròn, thậm chi biến dạng đó là do can huyết bất túc, gân mạch không được nuôi dưỡng gây nên bệnh, điều trị nên bổ huyết dưỡng Can, cho uống Bố Can thang (Y tông kim giám).

Trong bệnh Tước manh (quáng gà) gặp chứng Can huyết hư, thường có những chứng trạng đặc điểm là nhìn sự vật tối xầm, về tối quáng gà, trống mắt khô sáp mà đau lan tỏa tới cả xương quầng mắt, bệnh phần nhiều do Can huyết bất túc, thanh khiếu không được nuôi dưỡng gây nên. Sách Bút hòa y kính có nói : Can bị hư là do Thận thủy không hàm mộc lắm cho huyết thiếu, mạch ở tả quan tất phải Nhược hoặc Đại mà rỗng không, có các chứng trạng đau sườn, chóng mặt, mắt khô và xương quầng mát đau v.v, điều trị nên từ Can dưỡng huyết làm cho sáng mắt, cho uống bài Tứ vật thang (Thái bình huệ dăn hòa tẻ cục phương) gia vị, Chứng Can huyết hư gặp trong bệnh Bất mỵ, có những chúng trạng đặc điểm như mất ngủ, hay mê, dễ sợ hãi, chóng mặt hoa mắt, mạch Huyền Tế, phần nhiều do Can huyết bất túc, thần thức không được nuôi dưỡng, hồn không chỗ ẩn náu mà thành bệnh, điều trị nên dưỡng huyết, bổ Can, an thần, cho uống bài Toan tảo nhân thang (Kim qui yếu lược) gia giảm.

Chứng Can huyết hư thường gặp ở người bị mất huyết quá nhiều, doanh huyết hóa sinh bất túc, nhất là phụ nữ hay mắc chứng này, biểu hiện lâm sàng có các chứng trạng hành kinh ít, sắc nhợt, hành kinh muộn, bế kinh, sau khi hành kinh đau bụng, thai động không yên, thiếu sữa và không thụ thai v.v.

Can chứa huyết, chủ về sơ tiết, lấy huyết làm gốc "thể âm mà dụng dương" Nếu huyết dịch đầy đủ thì Can có chỗ chứa, chức năng sơ tiết mới được bình thường trái lại Can huyết bất túc, Can mất sự nuôi dưỡng thì sự sơ tiết thiếu thốn, từ đó mà xuất hiện các chứng trạng ngực sườn trướng đầy, hậm hực không vui, đa nghi cả nghĩ, thậm chí rầu rĩ muốn khóc, đó là thuộc về chứng Cạn khí uất kết. Nếu huyết hư dương trôi nổi, hư nhiệt từ trong sinh ra, thì xuất hiện các chứng trạng về Can dương thượng cang như nóng nẩy hay giận, mất ngủ hay mê, đầu trướng đau, hoa mát chóng mặt v.v.

Lại hư Can tàng huyệt, Thận chứa tinh, "tinh huyết cùng một nguồn” trong quá trình diễn biến bệnh cơ, chứng Can huyết hư lâu ngày không khỏi, thường có thể dẫn đến Thận tinh suy hư, mà biểu hiện các chứng trạng chóng mặt ù tai, lưng gối mềm yếu, tóc rụng răng trối, nam giới thì không sinh dục, nữ giới thi không thụ thai... đó là phạm vi chứng Can Thận suy tổn.

Trường hợp Can huyết bất túc, khi cơ không thư sướng, huyết đi sáp trệ, thường có kiêm cả chứng khí trệ huyết ứ, biểu hiện, các chứng trạng sưòn đau nhối, cố định không di chuyển, da dẻ trc vẩy, ven lưỡi tía tối hoặc có nốt ứ huyết; Níu ứ huyết trở trệ, huyết mới không sinh ra được, lại dẫn đến cạn huyết suy hư, hai loại ảnh hưởng lẫn nhau, khiến cho bệnh dằng dại lâu khỏi.

Chuẩn đoán phân biệt

Chứng Tâm huyết hư với chứng Can huyết hư: Tân chỏ huyết mạch, Can chứa huyết. Nếu Tâm huyết bát túc, thường thấy cả Can huyết hư, Nếu Can huyết bất túc, Tâm huyết cũng do đó mà bị tổn hại. Cho nên trên lâm sàng hai chứng này có chỗ gần giống nhau, đều có thể xuất hiện các chúng trạng về huyết hư như sắc mặt trắng nhợt hoặc vàng bủng, môi miệng và mặt tay chân nhợt, chóng mặt, chất lưỡi nhợt, mạch Tế v.v. Vì vậy cần phải chuẩn đoán phân biệt. Nói theo nguyên nhân gây bệnh, chứng Tâm huyết hư phần nhiều đo mất nhiều máu, nguồn sinh hóa ra huyết không đủ, cho đến tư lự quá độ, hao thương Tâm huyết gây nên bệnh. Tâm huyết bất tốc, Tâm mất sự nuôi dưỡng cho nên hồi hộp, thậm chí sợ hãi liên tục, Tâm chúa thần, chủ về thần chí, huyết không nuôi Tâm, thần khống chốn ở cho nên mất ngủ, hay mê, chóng quên, thần chí không yên. Chứng Can huyết hư cũng có thể do mất nhiều huyết, nguồn hóa sinh huyết bất túc, cho đến ốm lâu làm hao thượng Can huyết gây nên bệnh, vị Can chủ về gân, vẻ tươi đẹp hiện ra ở móng tay chân, khai khiếu lên mắt, Can huyết bất túc không nuôi dưỡng được các khiếu, cho nên hai mắt khô rít, nhìn mọi vật lờ mờ, quáng gà, nặng hơn thì mắt mờ; Can huyết suy hư không nuôi dưỡng được gân mạch thì tay chân tê dại, hoặc gân mạch co rút, mặt tay chân kém tươi, Can là huyết hải, Can huyết bất túc thì huyết hải rỗng không, không có gì để hỏa sinh ra kinh huyết, cho nên hành kinh thường muộn, lượng ít, thậm chí bế kinh; Huyền là mạch của Can, Tế là mạch thuộc huyết hư, chứng Can huyết hư phần nhiều thấy mạch Huyền Tế. Tóm lại, tính chất hai chứng bệnh tuy giống nhau, nhưng bộ vị mắc bệnh khác nhau, một bệnh ở Can, một bệnh ở Tâm, có thể chuẩn đoán phân biệt được.

Chứng Huyết hư sinh phong với chứng Can huyết liu, cả hai đều do huyết hư gây nên, đều biểu hiện lâm sàng Can huyết bất túc như các chứng trạng hai mắt khô rít. mắt trông lờ mờ không tỏ, sắc mặt không tươi, chân tay tê dại hoặc gân mạch co rát, chất lưỡi nhạt, mạch Huyên Tế v.v. Nhưng hai chứng này có có nặng nhẹ khác nhau. Huyết hư sính phong phần nhiều do chứng Can huyết hư phát triển thêm một bước, bệnh tình nặng hơn, bởi vì Can huyết suy hư, gẫu mạch không được nuôi dưỡng, hư phong nội động đến nỗi ngoài da ngứa ngáy, tứ chi lẩy bẩy nặng hơn thì co giật, chân tay tê dại, khác hẳn với chứng Cạn huyết hư chi đơn thuần là huyết hư, không có hiện tượng phong động chuẩn đoán phân biệt không khó.

Chứng Gán âm hư với chứng Can huyết hư; Can huyết là chi huyết dịch chứa ở tạng Can, thuộc Ấm. Cho nên Can huyết hư có thể phát triển thành chứng Can âm hư. Hai chứng này vị tiêu bệnh ở tạng Can, cùng thuộc Hư chứng của Can; Nguyên nhân bệnh, cơ chế bệnh, biểu hiện lâm sàng mười phần giống nhau. Chứng Càn huyết hư phần nhiều do mất nhiều máu, nguồn hóa sinh ra huyết bất túc, do ốm lầu, bệnh nặng hao thương, Can huyết gây nên bệnh. Còn chứng Can âm hư có thể từ chứng Can huyết hư phát triển thêm một bước, cũng có thể do Thận âm suy hao, thủy không hàm mộc, tinh không thấy ra huyết, hoặc thời kỳ cuối của bệnh nhiệt bị hun đốt âm dịch, cho đến Can uất hóa hỏa, ngấm ngầm làm hao tổn Can âm gây nên bệnh. Đặc điểm lâm sàng không giống nhau: Chứng Can huyết hư, là vì huyết hư không làm tươi tốt đầu mật cho nên sắc mặt trắng nhợt hoặc úa vàng, môi nhợt. Còn chứng Can âm hư là vì âm khống chế dương, hư nhiệt từ trong sinh ra, cho nên sắc mặt đỏ bừng, môi đỏ miệng khô; có thêm cả chứng trang âm hư nội nhiệt như ngũ tâm phiên nhiệt, hư phiền mất ngủ. triều nhiệt mồ hôi trộm, tiểu tiện vàng, đại tiện khô V V.

Chứng Can huyết hư phần nhiều có chất lưỡi nhợt, mạch Huyền Tế, chứng Cạn âm hư thì chất lưỡi đỏ tươi và ít rêu, mạch Huyền Tế Sác. Về phụ nữ mà nói, Cạn, huyết hư thì huyết hải không đầy, có thể biểu hiện chứng kinh nguyệt ra muộn, lượng ít, sác nhợt, thậm chí bế kinh. Do âm hư nội nhiệt, nhiệt ẩn náu ở Xung Nhám, có thể nung nấu âm huyết mà có chứng hành kinh ra muộn, lượng kinh hoặc nhiều hoặc ít, hoặc bế kinh . Cũng có thể do hư nhiệt bức huyết đi cần mà có chứng kinh nguyệt thấy trước kỳ, lượng nhiều sắc đỏ tươi, thậm chí có chứng trạng băng lậu. Chứng Can huyết hư là do Can huyết bất túc đơn thuần, không có hiện tượng âm hư nội nhiệt. Chứng Can âm hư ngoài những chứng trạng do âm huyết khuy tổn, hiện tượng âm hư nội nhiệt rõ rệt, đó là mẫu chốt để chuẩn đoán phân biệt.

Chứng Can uất huyết hư với chứng Can huyết hư: Cà hai đều có biểu hiện Can huyết bất túc, nhưng về bệnh nhân và bệnh cơ trên lâm sàng cổ đặc điểm khắc nhau. Chứng Can uất huyết hư thường do ưu tư tích uất, oán hận không tháo gỡ được, doanh âm bị hao tổn ngấm ngẩm, tạng âm hao thương mà thành bệnh, chứng trạng chủ yếu do ba tạng Tâm Can Thận âm huyết hư suy không nuôi dưỡng được Tâm thần, như buồn thường muốn khóc hoặc cười khóc thất thường, tinh thầií hoảng hỗt khó kiềm chế được; hoặc nhìn mà như không thấy gì, nghe mà không biết nghe gì, có lúc ngáp vặt, biểu lộ tính chất ranh mãnh ma lanh. Sách Kim quĩ yếu lược nđi: "Phụ nữ bị tạng táo, lo mừng muốn khóc giống như ma làm, thường vươn vai và ngáp luôn, bài Cam mạch- đại táo thang chủ chữa bệnh ấy", so với hứng Can huyết bát túc đơn thuần chuẩn đoán phân biệt không mây khô khản.

Trích dẫn y văn

Can mắc bệnh hư chứng thì mắt lờ mờ không tỏ, tai không nghe được, dễ sợ hãi như có người sắp đến bắt (Tạng khí pháp thời luận - Tố Văn).

Can hậu lên mắt mà chứa huyết. Huyết thì nuôi dưỡng mắt. Tạng Phủ bị mệt nhọc, huyết khí đều hư, khí của năm Tạng bất túc không nuôi dưỡng được mắt, cho nên mới nói mắt mờ (Hư lao bệnh chư hậu thượng - Chư bệnh nguyên hậu luận).

Có mười chứng thuộc Can hư, ngực sườn đau thuộc Can huyết hư, Rút gân thuộc huyết hự, Tầm mắt nhìn không xa, thuộc Can huyết hư và chân âm Thận thủy bất túc, Mắt hoa thuộc Can huyết hư có nhiệt kiêm cả chân âm Thận thủy bát túc ế, Mắt huyết quá nhiều, uốn ván, thuộc Can huyết hư có nhiệt... Mắt tối xầm choáng váng, thuộc huyết hư kiêm cả Thận thủy chân âm bất túc (Bản thao kinh sơ, quyển 2).

Huyết hư sinh phong, không phải là có phong đích thực. Sự thật là vì huyết không nuôi gân, gân mạch co rứt, co ruỗi khống được như bình thường, cho nên chân tạy co giật giống như phong động, cho nên gọi là hội hư ám phong, thông thường gọi là Can phong, bệnh Ôn nhiệt giai, đoạn cuổi cùng thường có chứng này, đó là vì nhiệt làm tổn hại huyết dịch (Lục kinh, phương dược - Thông tục Thương hàn luận),

Phụ nữ lấy huyết làm chủ yếu, huyết đủ thì đầy mà mệc khí thịnh; huyết suy thì nhiệt mà mộc khí găng quá. Mộc thịnh hay mộc găng quá, đều dễ sinh giận dữ... Nhưng cơn giận bốc lên thỉ Can huyết tất tổn hại nhiều, Cơn giận bị nén lại thì Can huyết hao tổn ngấm ngàm, bởi vì giận là kẻ thù của huyết. (Bút hoa y kính - quyền 4).

CHỨNG ÂM DỊCH KHUY TÔN

CHỨNG ÂM DƯƠNG ĐỀU HƯ

CHỨNG BÀNG QUANG HƯ HÀN

CHỨNG BÀNG QUANG THẤP NHIỆT

CHỨNG BÀO CUNG HƯ HÀN

CHỨNG BỆNH THANH ĐƯƠNG không THĂNG

CHỨNG CAN ÂM HƯ

CHỨNG CAN ĐƠM NHIỆT

CHỨNG CAN DƯƠNG HƯ

CHỨNG CAN DƯƠNG THƯƠNG CANG

CHỨNG CAN HỎA THƯỢNG VIÊM 

CHỨNG CAN HUYẾT HƯ

CHỨNG CAN HUYẾT Ứ Ở TRẺ

CHỨNG CAN KHÍ UẤT KẾT

CHỨNG CAN KINH THẬP NHIỆT

CHỨNG CAN PHONG NỘI ĐỘNG

CHỨNG CAN VỊ BẤT HÒA

CHỨNG ĐẠI TRƯỜNG HƯ HÀN

CHỨNG ĐẠI TRƯỜNG KẾT NHIỆT

CHỨNG ĐẠI TRƯỜNG TÂN KHUY

CHỨNG ĐẠI TRƯỜNG THẤP NHIỆT

CHỨNG ĐÀM HÓA QuẤY RỐI TÂM

CHỨNG ĐÀM KHÍ CẤU KẾT

CHỨNG ĐÀM NHIỆT ÚNG TẮC Ở PHẾ

CHỨNG ĐÀM NHIỆT VỊ LẤP TÂM KHIẾU Ở TRẺ

CHỨNG ĐÀM THẤP NGHẼN TRỞ Ở BÀO CUNG

CHỨNG ĐÀM Ứ CẤU KẾT

CHỨNG ĐỜM KHÍ HƯ

CHỨNG ĐỜM NHIỆT

CHỨNG ĐỜM UẤT ĐÀM QuẤY NHIỄU

CHỨNG DƯƠNG HƯ

CHỨNG DƯƠNG HƯ

CHỨNG HÀN ĐÀM 

CHỨNG HÀN ĐÀM NGĂN TRỞ PHẾ

CHỨNG HÀN TÀ NGƯNG ĐỌNG Ở BÀO CUNG

CHỨNG HÀN THẤP

CHỨNG HÀN THẤP

CHỨNG HÀ TRỆ CAN MẠCH

CHỨNG HUYẾT HÀN

CHỨNG HUYẾT HƯ

CHỨNG HUYẾT NHIỆT

CHỨNG HUYẾT THOÁT

CHỨNG HUYẾT THOÁT

CHỨNG HUYẾT Ứ

CHỨNG KHÍ ÂM ĐỀU HƯ

CHỨNG KHÍ BẾ

CHỨNG KHÍ BẾ

CHỨNG KHÍ HÃM

CHỨNG KHÍ HUYẾT ĐỀU HƯ

CHỨNG KHÍ NGHỊC

CHỨNG KHÍ THOÁT

CHỨNG MẠCH TẾ NGHẼN

CHỨNG NGUYÊN KHÍ HƯ YẾU Ở TRẺ EM

CHỨNG NHIỆT CÚC SINH PHONG Ở TRẺ EM

CHỨNG NHIỆT ĐÀM

CHỨNG NỘI NHIỆT BỐC MẠNH Ở TRẺ EM

CHỨNG PHẾ ÂM HƯ

CHỨNG PHẾ DƯƠNG HƯ

CHỨNG PHẾ KHÍ ÂM ĐỀU HƯ

CHỨNG PHẾ KHI HƯ

CHỨNG PHẾ KHIÍ HƯ YẾU Ở TRẺ EM

CHỨNG PHẾ KHÍ SUY TUYẾT

CHỨNG PHẾ NHIỆT QUÁ THỊNH Ở TRẺ EM

CHỨNG PHẾ THẬN ÂM HƯ

CHỨNG PHẾ TÝ THẬN DƯƠNG HƯ

CHỨNG PHONG ĐÀM

CHỨNG PHONG HÀN BỔ PHẦN BiỂU Ở TRẺ EM

CHỨNG PHÒNG HÀN PHẠM PHẾ

CHỨNG PHONG NHIỆT XÂM NHẬP Ở PHẾ

CHỨNG PHONG ÔN BỔ PHẦN BiỂU Ở TRẺ EM

CHỨNG SAU KHI ĐẺ BÀI HUYẾT XÔNG LÊN

CHỨNG TÂM ÂM HƯ

CHỨNG TÂM CAN HUYẾT HƯ

CHỨNG TÂM ĐỜM BẤT NINH

CHỨNG TÂM DƯƠNG HƯ

CHỨNG TÂM DƯƠNG THOÁT ĐỘT NGỘT

CHỨNG TÂM HỎA CAN THỊNH

CHỨNG TÂM HUYẾT HƯ

CHỨNG TÂM KHÍ HƯ

CHỨNG TÂM KHÍ HUYẾT ĐỀU HƯ

CHỨNG TÂM KINH THỰC NHIỆT Ở TRẺ EM

CHỨNG TÂM PHẾ KHÍ HƯ

CHỨNG TÂN DỊCH KHUY TÔN

CHƯNG TÁO BÓN

CHỨNG TÁO ĐÀM

CHỨNG PHẠM PHẾ

CHỨNG THAI HÀN

CHỨNG THAI NHIỆT

CHƯNG THẬN ÂM DƯƠNG ĐỀU HƯ

CHỨNG THẬN ÂM HƯ

CHỨNG THẬN DƯƠNG HƯ THỦY TRẦN LAN

CHỨNG THÀNH DƯƠNG không THĂNG

CHỨNG THẬN KHÍ HƯ

CHỨNG THẬN KHÍ HƯ YẾU Ở TRẺ EM

CHỨNG THẬN KHÍ không BỀN

CHỨNG THẬN KHÍ không NẠP

CHỨNG THẬN TINH BẤT TÚC

CHỨNG THẤP ĐÀM

CHỨNG THẤP Khàn

CHỨNG THẤP NHIỆT

CHỨNG THỰC THƯỜNG TỲ VỊ

CHỨNG THỦY ÂM Ứ ĐỌNG TRONG

CHỨNG THỦY HÀN SA PHẾ

CHỨNG THỦY KHÍ LANG TÂM

CHỨNG THỦY THẤP TRÀN LAN

CHỨNG TiỂU TRƯƠNG HƯ HÀN

CHỨNG TiỂU TRƯƠNG KHÍ TRỆ

CHỨNG TRỞ CAN không GIÁNG

CHỨNG TRỌC ÂM không GIÁNG

CHỨNG TÝ DƯƠNG HƯ

CHỨNG TÝ HƯ SINH PHONG Ở TRẺ EM

CHỨNG TÝ KHÍ HƯ 

CHỨNG TÝ không ThànG HUYẾT

CHỨNG TÝ PHẾ KHÍ HƯ

CHỨNG TÝ THẬN DƯƠNG HƯ

CHỨNG TỲ VỊ DƯƠNG HƯ

CHỨNG TỲ VỊ HƯ HÀN Ở TRẺ EM

CHỨNG TỲ VỊ HƯ YẾU Ở TRẺ EM

CHỨNG TỲ VỊ THẤP NHIỆT

CHỨNG TỲ VỊ THỰC TRỆ Ở TRẺ EM

CHỨNG VỊ ÂM HƯ

CHỨNG VỊ CƯỜNG TỲ NHƯỢC

CHỨNG VỊ HÀN

CHỨNG VỊ HÒA THƯỢNG VIÊM Ở TRẺ EM

CHỨNG VỊ KHÍ HƯ

CHỨNG VỊ KHÍ PHƯƠNG NGHỊCH

CHỨNG VỊ NHIỆT

CHỨNG VỌNG ÂM

CHỨNG VỌNG DƯƠNG

CHƯNG VỌNG DƯƠNG

CHỨNG XUNG NHÂM không BÊN

CHƯNG XUNG NHÂM NHIỆT CHỨNG

CHƯNG XUNG NHÂM Ứ THẤP NGƯNG TRỆ 

CHỨNG XUNG NHÂM Ứ TRỞ

CHỨNG XUNG NHÂM HƯ SUY 

HỘI CHỨNG BỆNH ÂM HƯ

HỘI CHỨNG BỆNH BĂNG HUYẾT

HỘI CHỨNG BỆNH DƯƠNG HƯ

HỘI CHỨNG BỆNH HUYẾT THẬN

HỘI CHỨNG BỆNH HUYẾT HƯ

HỘI CHỨNG BỆNH HUYẾT NHIỆT

HỘI CHỨNG BỆNH HUYẾT TÁO

HỘI CHỨNG BỆNH HUYẾT Ứ

HỘI CHỨNG BỆNH KHÍ HÃM

HỘI CHỨNG BỆNH KHÍ HƯ

HỘI CHỨNG BỆNH KHÍ NGHỊCH

HỘI CHỨNG BỆNH KHÍ THOÁT

HỘI CHỨNG BỆNH KHÍ TRỆ

HỘI CHỨNG BỆNH TÂM KHÍ ÂM ĐỀU HƯ

HỘI CHỨNG XUNG NHÂM Ứ TRỞ

Bài viết đã được đăng ký bản quyền (DMCA). Nếu copy nội dung hãy để lại link về bài gốc như một sự tri ân với tác giả. Xin cảm ơn!

Thông tin trên Website :

www.thaythuoccuaban.com chỉ có tính chất tham khảo. Người xem không được dựa vào để tự chữa bệnh.

. Địa chỉ: Số 482 lô 22C Đường Lê Hồng Phong, Đông Khê, Ngô Quyền, Hải Phòng. GP : 197GCN HNY SYTH