CHỨNG BÀO CUNG HƯ HÀN

I. Khái niệm

Chứng bào cung hư hàn là tên gọi chung cho một loạt chứng trạng do nguyên nhân do sinh đẻ nhiều dẫn đến dương khí bất túc, bào cung mất sự nuôi dưỡng ấm áp sự sinh hoa của khi huyết bất cập gây nên bệnh.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là bụng dưới không ấm, ưa nóng, ưa xoa bóp, đau liên miên, chu kỳ ra muộn hoặc lượng kinh nguyệt ít hoặc kính bế không thông, sắc tráng loãng, lưng gối đau mỏi, sợ lạnh tay chân lạnh. (đại tiện lỏng, lưỡi nhạt rêu mỏng, mạch Trầm Tế vô lực hoặc Trầm Trì.

Bào cung hư hàn thường gặp trong các bệnh ,"chu kỳ muộn", "kinh nguyệt rạ lượng ít”, "thống kinh", "bế kinh", "đái hạ", "bất dựng" "Vô sinh" cũng có thể gặp trong các bệnh "thại lâu", "có thai đau bụng", "động thai", "thai chậm phát triển"...

Cần chuẩn đoán phân biệt với "chứng hàn tà ngưng đọng ở bào cung" và "chứng đàm thấp ngăn trở ở bào cung".

II. Phân tích

Bào cung hư hàn là chứng hậu đặc biệt. Vì công năng sinh lý của phụ nữ đặc biệt hoạt động về chu kỳ, mang thái và sinh đẻ đều lấy bào cung làm chữ yếu, cho nên chứng bào cung hư hàn có thể xuất hiện các loại tật bệnh trong tạp bệnh của phụ nữ như kinh - đới thai sản. Nhưng trong các loại tật bệnh khác nhau, biểu hiện lâm sáng đều có đặc điểm riêng, cho nên cần phải phân tích rõ ràng.

Chứng này xuất hiện ở loại kinh muộn hoặc hành kinh ra lượng quá ít, biểu hiện lâm sàng thường thấy kinh nguyệt ra kéo dài hoặc ra muộn tới 7 - 8 ngày, hoặc hai, ba tháng mới hành kinh 1 lần hoặc là đúng ngày hành kinh nhưng số lượng lại quá ít rõ rệt, hoặc là thời gian hành kinh quá ngắn thậm chí chỉ một, hai ngày đã sạch, hoặc chỉ ra giỏ giọt rồi hết ngay, sắc kinh quá nhạt, chất loãng, lưng gối đau mỏi, đau bụng liên miên, ưa ấm ưa xoa bóp v.v... Đây là do dương khí vốn hư, bào cung thiếu sự ấm áp, khí ít huyết lạnh, sinh hóa bất cập gây nên bệnh, như mục Phụ nhân quy sách cảnh nhạc toàn thư có nói: "Phàm là huyết lạnh, ắt chu kỳ ra muộn, nhưng tại sao mà huyết lạnh? cũng là bởi dương khí bất túc thì lạnh từ trong sinh ra, mà sự sinh hóa không đúng kỳ hạn, cũng là do lạnh gầy nên". Điều trị nên phù dương làm ấm Bào cung, ôn kinh dưỡng huyết, cho uống bài đại doanh tiễn (Cảnh Nhạc toàn thư).

Kinh muộn hoặc lượng kinh ra quá ít dần dần, thường tiến tới Bế kinh, cho nên chứng bào cung hư hàn cũng thường gập trong bệnh bế kinh, nhưng biểu hiện lâm sàng thường có đặc điểm xuất hiện ở trường hợp kinh muộn hoặc lượng kinh quá ít, về phép chữa như đã nói ở trên, dừng thuốc cũng đã nói ở trên.

Khi chứng bào cung hư hàn gặp trong bệnh thống kinh, biểu hiện lâm sàng thường là lượng kinh ra ít và đau bụng liên miên, gặp nóng thì đỡ đau, ưa xoa bóp, lượng kinh ra ít sắc nhạt và loãng, chân tay lạnh đại tiện nhão v.v... đó là những đặc điểm do dương hư huyết lạnh, huyết lương thông trì trệ. Bởi vì do dương khí bất túc, dương hư thì hàn sinh ra từ bên trong, huyết gặp lạnh thì ngưng đọng, lại thêm dương khí hư suy không có sức để vận chuyển huyết. Môn điều kinh sách phụ khoa bổ giải của Trần Tổ Yêm có nói "Kinh đã ra thì huyết phải rỗng không. Huyết ra nhiều thì vong âm, dương khí do đó không có gì giúp đỡ, Hư thì sinh lạnh, cho nên đau bụng". Nên Ôn kinh dưỡng huyết, dùng bài Ôn kinh thang (Kim Quỹ yếu lược).

Khi chứng bào cung hư hàn xuất hiện trong bệnh đái hạ, biểu hiện lâm sàng phần nhiều thấy đái hạ ra sắc trắng loãng, dầm dề không dứt, bụng dưới không ấm, bộ phận sinh dục lạnh V V... đó là vì bào rung không ấm áp, âm tinh không khả năng hóa sinh ra huyết, bị tháp trọc dồn xuống xung nhâm gây nên bênh. Phép chữa ôn đường chỉ đới, dùng bài Nội bổ hoàn (Nữ khoa thiết yếu).

Chứng bào cúng hư hàn xuất hiện trong bệnh "Bất dưng" (vô sinh) biểu hiện lâm sàng là vợ chồng xây dựng lâu năm không thai nghén, thời kỳ thấy kinh nói chung khá muộn, thường là kinh muộn hoặc lượng kinh quá ít, có khi Bế kinh, có khi phải dùng thuốc kinh nguyệt mới ra, mầu sắc tối xạm hoặc như muội khói dầu, lưng đau mỏi, tình dục thờ ơ v.v... thăm khám có thể thấy bào cung nhỏ hơn người bình thường khá nhiều, đó cũng là đặc điểm của bệnh. Mục cầu tự sách diệp thị nữ khoa chứng trị nối: "Nguyên nhân bệnh của phụ nữ không thụ thai... có khi đo tử cung bị lạnh mà không sinh hóa được dương khí". Điều trị nên trợ dương làm ấm tử cung, thường dùng bài Ngải phụ noãn cung hoàn (Nhân trai trục chỉ phương).

Nếu chứng Bào cung hư hàn thấy ở bệnh Thai lậu, biểu hiện lâm sàng là huyết ra nhỏ giọt khi đang có thai, sắc đỏ nhạt, lượng ít, hoặc bài tiết ra như nước đậu tương, lưng bụng không ấm, cơ thể lạnh chận, tay lạnh, sắc mặt trắng xanh, môi lưỡi thâm nhạt đây là do Dương hư bào cung bị lạnh, tinh huyết bất túc, thai không được nuôi dưỡng gây nên điều trị nên ổn kinh làm ấm bào cung, dưỡng huyết an thai, cho uống đương quy ký sinh thang (Tế âm cương mục).

Chứng bào cung hư hàn xuất hiện trong bệnh có thai đau bụng, đa số biểu hiện thời gian đang có thai, bụng dưới lạnh đau từng lúc, và trướng bụng đó là đặc điểm do dương hư, âm hàn thịnh ở trong. Bào cung không có dương khí sưởi ấm, khí ấm hàn nghẽn tắc ở trong, thai không được nuôi dưỡng gây nên. Điều trị nên làm ấm tử cung, phù dương ức âm, dùng bài giao ngải thang Kim Quỹ yếu lược.

Nếu Thai lậu cùng xuất hiện với chứng đau bụng khi đang có thai thì sẽ là bệnh động thai. Động thai tiếp tục phát triển, lượng huyết ra nhiều, lưng và bụng đau dữ dội, thường dẫn đến dọa thai. Cho nên chứng bào cung hư hàn cũng thường xuất hiện trong các bệnh động thai và dọa thai.

Thai chậm phát triển cũng có thể xuất hiện chứng hậu bào cung hư hàn. Biểu hiện lâm sàng là khi có thai đã 5 - 6 tháng mà độ lớn của tử cung so với người bình thường có thai cùng kỳ nhỏ hơn. Mục Phụ nhân nhâm thần chư bệnh hậu sách, chư bệnh nguyên hậu luận có nói: "Nếu huyết khí hư tổn, Bào cung bị lạnh, thai sẽ héo quát không phát triển, có hiện tương thai nhi không chuyển động, tuy số ngày tháng đã đủ cũng không sinh được. Thai ở trong đã héo quắt, phần nhiều các thai ấy đã chết, điều trị nên làm ấm bào cung, dùng bài Trường thai Bạch truật tán (Diệp thị nữ khoa chứng trị).

Chứng Bào cung hư hàn xuất hiện trong bệnh ác lộ không ra, biểu hiện lâm sàng là ác lộ không ra, hoặc tuy có ra nhưng lựợng rất ít, bụng dưới lạnh đau trướng đầy, cơ thể lạnh tay chân lạnh, mạch Tế Sác, đó là hiện tượng bài trọc ứ trệ, sản hậu chương sách Vạn thị phụ nhân khoa.

Chứng Bào cung hư hàn gặp ở tuổi thanh xuân cho đến tuổi tiền mãn kinh, nguyên nhân phần nhiều do phú bẩm bạc nhược, khi có thai lại phòng lao tổn thương hạ nguyên, bào cung dương hư âm thịnh, đến nỗi phát sinh các bệnh về Kinh - Đới - Thai - Sản, hiếm thấy chứng này ở tuổi con gái và phụ nữ cao tuổi.

Chứng Bào cung hư hàn là do dương khí bất túc, bào cung mất sự ấm áp gây nên, nguồn gốc của ác lộ (máu hôi) gặp lạnh thì huyết đi rít trệ. Cho nên thường diễn biến là chứng hàn kiêm ứ, dễ dẫn đến bệnh Trưng Hà. Chứng Bào cung hư hàn do dương hư khí hóa không lợi, dễ làm thấp trọc nghẽn trở ở trong, lại có thể hình thành chứng Hàn thấp ứ kết, dẫn đến các bệnh Trưng Hà và Đái hạ.

III. Chẩn đoán phân biệt

Chứng hàn tà ngưng đọng ở Bào cung với chứng Bào cung hư hàn, cả hai Bảo cung đều bị lạnh. Nhưng lạnh cổ tiêu, bản, hư, thực khác nhau, Hàn tà ngưng đọng ở Bào cung là chứng Tiêu thực, Bản hư. Sách kinh điển nói: "Tà sở dĩ xâm phạm, chính khí át hư". Phong hàn vào thẳng Bào cung ẩn náu, thừa cơ hội đang hành kinh hoặc mới sinh đẻ, cái tiêu là Bào cung rỗng không mà ập vào, cho nên thường lấy cái hư của khi hành kinh, ki mới đẻ làm dụ thân. Chứng bào cung hư hàn là chứng cả tiêu và bản đều bị hư cái hàn là nhân dương hư sinh ra, chứ không phải tà khí phong hàn ở ngoài lọt vào ẩn náu, đa số do tiên thiên bất túc, hoặc phòng lao, đẻ nhiều mà gây bệnh. Loại trên là do hàn tà ẩn nấp, dương khí bị chèn ép, huyết bị lạnh làm ngưng tụ đến nỗi đường đi của huyết bị rít huyết đi không lợi. Loại sau là do dương hư sự sinh hóa bất túc, huyết thiếu thốn đến nỗi huyết hải không dồi dào theo đúng định kỳ, vì vậy nguyên nhân bệnh và bệnh cơ của hai loại có chỗ khác nhau. Trong nhiều loại tật bệnh, tuy cả hai đều có các chứng bụng dưới không ấm và đau, hành kinh muộn không đúng kỳ, lượng kinh ít hoặc bế tắc không thông là những chứng chủ yếu, nhưng loại trên, đa số có đặc trưng đau như thắt, sắc huyết tía tối thành cục, còn loại sau có đặc trưng là đau âm ỉ, sắc huyết nhạt và loãng cho nên hai chúng có thể căn cứ vào hư, thực mà phân biệt.

Chứng đàm thấp ngăn trở ở Bào cung với chứng Bào cung hư hàn: Bào cung là nơi xuất phát của sự hành kinh, là nơi bao bọc thai nhi, là cái nguồn của ác lộ. Chứng đàm thấp ngăn trở ở Bào cung với chứng Bào cung hư hàn, bộ vị bệnh như một, đều có biểu hiện chủ yếu là hành kinh không đúng kỳ, lượng huyết, ra ít hoặc kinh huyết không ra, hơn nữa cùng, gặp trong các bệnh kinh nguyệt không điều và không thụ thai. Nhưng loại trên là do Tỳ hư không vận chuyển chất tinh vi của thủy cốc không đưa lên Tâm Phế hóa ra màu đỏ mà thành huyết, trái lại tụ ở bên trong mà sinh ra thấp, ra đàm, lại do đàm và thấp úng trệ làm nghẽn tắc bào cung và bào mạch mà gây nên bệnh. Loại sau là do Thận dương không mạnh, âm hàn thịnh ở trong, bào cung mất sự nuôi dưỡng ấm áp. Sự sinh hóa của khí huyết bất túc, 2 mạch xung nhâm suy yếu gây nên bệnh. Đây là chỗ khác nhau của 2 loại. Căn cứ vào đặc điểm lâm sàng mà nói loại trên là do đàm và thấp tràn lan thường làm cho người ta béo bệu loại sau là do dương hư hàn sinh ra từ bên trong, thường khiến cho người ta lạnh và đau ở bụng dưới. Nếu tham khảo cả rêu lưỡi và mạch thì 2 loại chứng bệnh này phân biệt không khó khăn gì.

IV. Trích dẫn y văn

Phụ nữ mang thai 6 - 7 tháng, mạch huyền phát sốt, thai càng to, đau bụng sợ lạnh, bụng dưới phập phồng... Cho uống Phụ tử thang để ấm tạng (Phụ nhăn nhâm thần mạch chứng tính trị - Kim Quỹ yếu lược).

Bệnh của phụ nữ do hư, tích lạnh, quyết khí, và các loại chấm dứt kinh thủy cho đến nhiều năm bị huyết lạnh tích kết ở bào môn.. Khiến cho bụng dưới đau và lạnh lan tỏa tới xương sống và vùng khí nhai cộng thêm tình trạng buồn thường vô cớ và đới hạ, bệnh kéo dài thì gày còm mạch Hư hay lạnh nói chung là 36 loại bệnh thiên biến vạn hóa... (Phụ nhân tạp bệnh mạch chứng tính trị - Kim Quỹ yếu lược).

Bào lạc bị tổn thương tử cung bị hư lạnh, khí dồn xuống gây nên chứng âm đỉnh, đó là chứng hạ thoát. Xét thấy mạch ở Thiếu ấm phù mà động, phù là hư, động là hồi hộp, cho nên hạ thoát (Phụ nhăn tạp bệnh chư hậu - chư bệnh nguyên hậu luận).

Xem tiếp >>

 

CHỨNG ÂM DỊCH KHUY TÔN

CHỨNG ÂM DƯƠNG ĐỀU HƯ

CHỨNG BÀNG QUANG HƯ HÀN

CHỨNG BÀNG QUANG THẤP NHIỆT

CHỨNG BÀO CUNG HƯ HÀN

CHỨNG BỆNH THANH ĐƯƠNG không THĂNG

CHỨNG CAN ÂM HƯ

CHỨNG CAN ĐƠM NHIỆT

CHỨNG CAN DƯƠNG HƯ

CHỨNG CAN DƯƠNG THƯƠNG CANG

CHỨNG CAN HỎA THƯỢNG VIÊM 

CHỨNG CAN HUYẾT HƯ

CHỨNG CAN HUYẾT Ứ Ở TRẺ

CHỨNG CAN KHÍ UẤT KẾT

CHỨNG CAN KINH THẬP NHIỆT

CHỨNG CAN PHONG NỘI ĐỘNG

CHỨNG CAN VỊ BẤT HÒA

CHỨNG ĐẠI TRƯỜNG HƯ HÀN

CHỨNG ĐẠI TRƯỜNG KẾT NHIỆT

CHỨNG ĐẠI TRƯỜNG TÂN KHUY

CHỨNG ĐẠI TRƯỜNG THẤP NHIỆT

CHỨNG ĐÀM HÓA QuẤY RỐI TÂM

CHỨNG ĐÀM KHÍ CẤU KẾT

CHỨNG ĐÀM NHIỆT ÚNG TẮC Ở PHẾ

CHỨNG ĐÀM NHIỆT VỊ LẤP TÂM KHIẾU Ở TRẺ

CHỨNG ĐÀM THẤP NGHẼN TRỞ Ở BÀO CUNG

CHỨNG ĐÀM Ứ CẤU KẾT

CHỨNG ĐỜM KHÍ HƯ

CHỨNG ĐỜM NHIỆT

CHỨNG ĐỜM UẤT ĐÀM QuẤY NHIỄU

CHỨNG DƯƠNG HƯ

CHỨNG DƯƠNG HƯ

CHỨNG HÀN ĐÀM 

CHỨNG HÀN ĐÀM NGĂN TRỞ PHẾ

CHỨNG HÀN TÀ NGƯNG ĐỌNG Ở BÀO CUNG

CHỨNG HÀN THẤP

CHỨNG HÀN THẤP

CHỨNG HÀ TRỆ CAN MẠCH

CHỨNG HUYẾT HÀN

CHỨNG HUYẾT HƯ

CHỨNG HUYẾT NHIỆT

CHỨNG HUYẾT THOÁT

CHỨNG HUYẾT THOÁT

CHỨNG HUYẾT Ứ

CHỨNG KHÍ ÂM ĐỀU HƯ

CHỨNG KHÍ BẾ

CHỨNG KHÍ BẾ

CHỨNG KHÍ HÃM

CHỨNG KHÍ HUYẾT ĐỀU HƯ

CHỨNG KHÍ NGHỊC

CHỨNG KHÍ THOÁT

CHỨNG MẠCH TẾ NGHẼN

CHỨNG NGUYÊN KHÍ HƯ YẾU Ở TRẺ EM

CHỨNG NHIỆT CÚC SINH PHONG Ở TRẺ EM

CHỨNG NHIỆT ĐÀM

CHỨNG NỘI NHIỆT BỐC MẠNH Ở TRẺ EM

CHỨNG PHẾ ÂM HƯ

CHỨNG PHẾ DƯƠNG HƯ

CHỨNG PHẾ KHÍ ÂM ĐỀU HƯ

CHỨNG PHẾ KHI HƯ

CHỨNG PHẾ KHIÍ HƯ YẾU Ở TRẺ EM

CHỨNG PHẾ KHÍ SUY TUYẾT

CHỨNG PHẾ NHIỆT QUÁ THỊNH Ở TRẺ EM

CHỨNG PHẾ THẬN ÂM HƯ

CHỨNG PHẾ TÝ THẬN DƯƠNG HƯ

CHỨNG PHONG ĐÀM

CHỨNG PHONG HÀN BỔ PHẦN BiỂU Ở TRẺ EM

CHỨNG PHÒNG HÀN PHẠM PHẾ

CHỨNG PHONG NHIỆT XÂM NHẬP Ở PHẾ

CHỨNG PHONG ÔN BỔ PHẦN BiỂU Ở TRẺ EM

CHỨNG SAU KHI ĐẺ BÀI HUYẾT XÔNG LÊN

CHỨNG TÂM ÂM HƯ

CHỨNG TÂM CAN HUYẾT HƯ

CHỨNG TÂM ĐỜM BẤT NINH

CHỨNG TÂM DƯƠNG HƯ

CHỨNG TÂM DƯƠNG THOÁT ĐỘT NGỘT

CHỨNG TÂM HỎA CAN THỊNH

CHỨNG TÂM HUYẾT HƯ

CHỨNG TÂM KHÍ HƯ

CHỨNG TÂM KHÍ HUYẾT ĐỀU HƯ

CHỨNG TÂM KINH THỰC NHIỆT Ở TRẺ EM

CHỨNG TÂM PHẾ KHÍ HƯ

CHỨNG TÂN DỊCH KHUY TÔN

CHƯNG TÁO BÓN

CHỨNG TÁO ĐÀM

CHỨNG PHẠM PHẾ

CHỨNG THAI HÀN

CHỨNG THAI NHIỆT

CHƯNG THẬN ÂM DƯƠNG ĐỀU HƯ

CHỨNG THẬN ÂM HƯ

CHỨNG THẬN DƯƠNG HƯ THỦY TRẦN LAN

CHỨNG THÀNH DƯƠNG không THĂNG

CHỨNG THẬN KHÍ HƯ

CHỨNG THẬN KHÍ HƯ YẾU Ở TRẺ EM

CHỨNG THẬN KHÍ không BỀN

CHỨNG THẬN KHÍ không NẠP

CHỨNG THẬN TINH BẤT TÚC

CHỨNG THẤP ĐÀM

CHỨNG THẤP Khàn

CHỨNG THẤP NHIỆT

CHỨNG THỰC THƯỜNG TỲ VỊ

CHỨNG THỦY ÂM Ứ ĐỌNG TRONG

CHỨNG THỦY HÀN SA PHẾ

CHỨNG THỦY KHÍ LANG TÂM

CHỨNG THỦY THẤP TRÀN LAN

CHỨNG TiỂU TRƯƠNG HƯ HÀN

CHỨNG TiỂU TRƯƠNG KHÍ TRỆ

CHỨNG TRỞ CAN không GIÁNG

CHỨNG TRỌC ÂM không GIÁNG

CHỨNG TÝ DƯƠNG HƯ

CHỨNG TÝ HƯ SINH PHONG Ở TRẺ EM

CHỨNG TÝ KHÍ HƯ 

CHỨNG TÝ không ThànG HUYẾT

CHỨNG TÝ PHẾ KHÍ HƯ

CHỨNG TÝ THẬN DƯƠNG HƯ

CHỨNG TỲ VỊ DƯƠNG HƯ

CHỨNG TỲ VỊ HƯ HÀN Ở TRẺ EM

CHỨNG TỲ VỊ HƯ YẾU Ở TRẺ EM

CHỨNG TỲ VỊ THẤP NHIỆT

CHỨNG TỲ VỊ THỰC TRỆ Ở TRẺ EM

CHỨNG VỊ ÂM HƯ

CHỨNG VỊ CƯỜNG TỲ NHƯỢC

CHỨNG VỊ HÀN

CHỨNG VỊ HÒA THƯỢNG VIÊM Ở TRẺ EM

CHỨNG VỊ KHÍ HƯ

CHỨNG VỊ KHÍ PHƯƠNG NGHỊCH

CHỨNG VỊ NHIỆT

CHỨNG VỌNG ÂM

CHỨNG VỌNG DƯƠNG

CHƯNG VỌNG DƯƠNG

CHỨNG XUNG NHÂM không BÊN

CHƯNG XUNG NHÂM NHIỆT CHỨNG

CHƯNG XUNG NHÂM Ứ THẤP NGƯNG TRỆ 

CHỨNG XUNG NHÂM Ứ TRỞ

CHỨNG XUNG NHÂM HƯ SUY 

HỘI CHỨNG BỆNH ÂM HƯ

HỘI CHỨNG BỆNH BĂNG HUYẾT

HỘI CHỨNG BỆNH DƯƠNG HƯ

HỘI CHỨNG BỆNH HUYẾT THẬN

HỘI CHỨNG BỆNH HUYẾT HƯ

HỘI CHỨNG BỆNH HUYẾT NHIỆT

HỘI CHỨNG BỆNH HUYẾT TÁO

HỘI CHỨNG BỆNH HUYẾT Ứ

HỘI CHỨNG BỆNH KHÍ HÃM

HỘI CHỨNG BỆNH KHÍ HƯ

HỘI CHỨNG BỆNH KHÍ NGHỊCH

HỘI CHỨNG BỆNH KHÍ THOÁT

HỘI CHỨNG BỆNH KHÍ TRỆ

HỘI CHỨNG BỆNH TÂM KHÍ ÂM ĐỀU HƯ

HỘI CHỨNG XUNG NHÂM Ứ TRỞ

Bài viết đã được đăng ký bản quyền (DMCA). Nếu copy nội dung hãy để lại link về bài gốc như một sự tri ân với tác giả. Xin cảm ơn!

Thông tin trên Website :

www.thaythuoccuaban.com chỉ có tính chất tham khảo. Người xem không được dựa vào để tự chữa bệnh.

. Địa chỉ: Số 482 lô 22C Đường Lê Hồng Phong, Đông Khê, Ngô Quyền, Hải Phòng. GP : 197GCN HNY SYTH