Tên thường gọi: Qui đầu là một phần phía đầu của rễ cây Đương quy.
Tên tiếng Trung: 当归
Tên dược: Radix Angelicae Sinensis.
Tên thực vật: Angelica sinensis (oliv) Diels.
(Mô tả, hình ảnh cây Đương quy, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Ở Việt Nam Đương quy được trồng vào đầu những năm 60. Hiện nay cây được trồng nhiều ở các tỉnh vùng Tây Bắc như: Lào Cai, Hòa Bình, Lai Châu và ở Tây Nguyên như: Đà Lạt (Lâm Đồng).
Rễ đào vào cuối thu. Loại bỏ rễ xơ rễ được chế biến hoặc xông khói với khí sufur và cắt thành lát mỏng.
Cây đương quy thu hoạch về sẽ được cắt bỏ phần lá, giữ lại phần rễ, phơi khô hoặc sao khô để sử dụng.
Có ba cách chế biến đương quy và chia đương quy ra thành ba loại như sau:
Quy đầu: là lấy một phần phía đầu
Quy thân: là bỏ đầu và đuôi
Quy vĩ: lấy phần rễ nhánh
Đương quy chứa nhiều tinh dầu và các loại vitamin tốt cho sức khỏe. Tinh dầu (0,02%), Glucose, Vitamin B12.
Tác dụng tốt với hệ thống tiêu hóa
Tác dụng với hệ xương khớp
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Vào kinh can, tâm và tỳ.
Bổ máu, hoạt huyết và giảm đau. Làm ẩm ruột.
Ngày dùng 5-15g.
Dùng phối hợp đương quy với bạch thược, sinh địa hoàng và hoàng kỳ dưới dạng tứ vật thang.
Dùng phối hợp đương qui với sinh địa hoàng, bạch thược, và xuyên khung dưới dạng tứ vật thang.
Dùng phối hợp đương qui với hương phụ, diên hồ sách và ích mẫu thảo.
Dùng phối hợp đương qui với đào nhân và hồng hoa.
Dùng phối hợp đương qui với agiao, ngải diệp và sinh địa hoàng.
- Đau do chấn thương ngoài: Dùng phối hợp đương qui với hồng hoa, táo nhân, nhũ hương và một dược.
- Đau do nhọt và hậu bối: Dùng phối hợp đương qui với mẫu đơn bì, xích thược, kim ngân hoa và liên kiều.
- Đau bụng sau đẻ: Dùng phối hợp đương qui với ích mẫu thảo, táo nhân và xuyên khung.
- Ứ trệ phong thấp (đau khớp): Dùng phối hợp đương qui với quế chi, kích huyết đằng và bạch thược.
Dùng phối hợp đương qui với nhục thục dung và hoạt ma nhân.
Đầu rễ có tác dụng bổ máu hơn. Phần cuối rễ tốt cho hoạt huyết. Phần thân rễ: hoạt huyết và bổ máu. Khi dùng phối hợp đương qui với rượu có thể làm tăng tác dụng bổ máu. Không dùng đương qui cho các trường hợp thấp quá mức ở tỳ và vị và ỉa chảy hoặc phân lỏng.
Theo Trần Thuý và Phạm Duy Nhạc đã dùng Đương quy trong các bài thuốc:
Hay gặp ở người thiếu máu, phụ nữ sau đẻ, dùng Đương quy 12g và 9 vị thuốc khác.
Tỳ phế đều hư: Hay gặp ở người có bệnh mãn ở phổi và đường tiêu hóa, dùng Đương quy 10g và 17 vị thuốc khác.
Thường gặp ở người già xơ cứng động mạch, cao huyết áp, lão suy. Phụ nữ sau khi đẻ, thời kỳ tiền mãn kinh hoặc các bệnh phụ khoa như kinh nguyệt ít, bế kinh..., dùng Đương quy 8g và 13 vị thuốc khác.
Thường gặp ở người già có biểu hiện lão suy, ỉa chảy mãn tính, suy nhược thần kinh thể hưng phấn giảm, dùng Đương quy 8g và 8 vị thuốc khác.
Thường gặp ở phụ nữ tiền mãn kinh, cao huyết áp, suy nhược thần kinh, dùng Đương quy 12g và 7 vị thuốc khác.
Theo Nguyễn Thị Minh An đã dùng Đương quy điều trị cho 10 bệnh nhân có triệu chứng thiếu máu với các nguyên nhân khác nhau thì kết quả cụ thể là.
Thaythuoccuaban.com Tổng hợp
*************************
Thông tin trên Website :www.thaythuoccuaban.comchỉ có tính chất tham khảo. Người xem không được dựa vào để tự chữa bệnh.
Lương y Nguyễn Hữu Toàn . Địa chỉ: Số 482 lô 22C Đường Lê Hồng Phong, Đông Khê, Ngô Quyền, Hải Phòng. GP : 197GCN HNY SYTH