Nhục đậu khấu còn có tên là Nhục quả (Cương mục), Ngọc quả (Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam), Già câu lắc (Bản thảo thập di), Đậu khấu (Tục truyền tín phương.
Tên tiếng trung: 肉豆蔻
Tên khoa học: Myristica fragrans Houtt.
Họ khoa học: Họ nhục đậu khấu (Myristicaceae)
(Mô tả, hình ảnh cây nhục đậu khấu, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Cây có nguồn gốc từ các đảo Ceram và các đảo khác của Nam quần đảo Moluques được đưa vào trồng ở các vùng nóng và đã được thuần hoá. Ở miền Nam nước ta và ở Campuchia cũng có trồng nhưng tương đối hiếm.
Trồng được 7 năm thì có quả. Cây cho quả trong vòng 60-70 năm. Mỗi năm thu hoạch hai lần vào tháng 5-6 và 11-12. Sau khi hái quả, bỏ vỏ, lấy riêng áo hạt ngâm nước rồi phơi, sấy khô, dùng làm thuốc với tên là Nhục quả y hay Ngọc quả hoa. Hạt đem sấy ở nhiệt độ 80 độ cho đến khi lắc nghe tiếng lọc sọc thì có thể đem đập lấy nhân Nhục đậu khấu.
Nhân, vỏ giả của nhân.
Tinh dầu có mùi thơm dùng ít tăng bài tiết dịch vị, kích thích nhu động ruột giúp ăn ngon ( liều rất ít 0,03 - 2ml).
Liều lượng tinh dầu Nhục đậu khấu làm say tê rõ rệt. Người uống 7,5g bột Nhục đậu khấu có thể gây hoa mắt, chóng mặt, nói sảng, hôn mê, uống quá liều đã có trường hợp gây tử vong. Trên thực nghiệm ở mèo, liều gây tê mê thường là độc dẫn đến suy gan.
Độc tính của thuốc: trên mèo thực nghiệm, với liều 1,9g/kg thường gây nhiễm độc gan (kiểm tra sinh thiết). Trên người với liều uống bột thuốc 7,5g gây độc có triệu chứng kích thích thần kinh, nói sảng. Chất gây độc chủ yếu là thành phần Myristicin.
(Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng .... )
Vị đắng, cay (Dược tính luận)
Vị cay, tính ấm, không độc (Hải dược bản thảo)
Vị đắng cay mà xáp, tính ấm (Bản thảo chính)
Kinh tỳ, đại tràng
Kinh thủ dương minh (Thang dịch bản thảo)
Kinh phế, vỵ (Lôi công bào chế dược tính giải)
Kinh tỳ, vị, đại tràng (Bản thảo sơ kinh)
Ấm trung tiêu hạ khí, tiêu ăn, bền ruột. Trị tâm bụng chướng đau, hư tả, lãnh lỵ, nôn mửa, thức ăn cách đêm không tiêu.
Chủ trị trẻ con nôn ngược không bú sữa, đau bụng, trị thức ăn cách đêm không tiêu, đờm ẩm. (Dược tính luận)
Chủ tâm bụng đau giun, tỳ vị hư lạnh kiêm khí hư lạnh, lạnh nóng tiết tả do hư, lỵ trắng đỏ. Phàm lỵ dùng cháo trắng điều thuốc tốt, hoắc loạn khí hư dùng nước gừng tươi đưa thuốc. (Hải dược bản thảo)
Điều trung hạ khí ngừng tả lỵ, mở vỵ, tiêu ăn. Lớp vỏ mòng ngoài hạt hạ khí, giải độc rượu, trị hoặc loạn. (Nhật hoa tử bản thảo)
Ấm trung tiêu, trị tích lạnh tâm bụng chướng đau, hoắc loạn trúng ác, nôn rãi bọt, khí lạnh, tiêu ăn ngừng tiết tả, trẻ con miệng nôn trôn ỉa ra sữa. (Khai bảo bản thảo)
Ấm tỳ vỵ, bền chặt đại tràng (Cương mục)
Trị tinh lạnh (Bản thao kinh độc)
Trị tiết tả do thận, trên thịnh dưới hư, mọi ngược xung lên, nguyên dương nổi lên mà đau đầu. (Bản thảo cầu nguyên)
Ấm tỳ vỵ, sáp xít ruột, ấm trung tiêu, hạ khí, tiêu ăn, trị vỵ lạnh tả lâu, bụng chướng đau, nôn mửa, thức ăn cách đêm không tiêu. (Vân Nam trung dược tư nguyên danh lục)
Ngày dùng 3-10g (1,5-3g dạng bột hoặc viên hoàn).
Nhục đậu khấu 1 quả, khoét 3 lỗ rỗng, cho 3 cục nhũ hương nhỏ vào, lấy bột miến nặn kín, miến chín làm mức, bỏ miến giã nhỏ. Mỗi lần uống 5g, uống cùng nước cơm, trẻ nhỏ dùng 2.5g. (Dương thị gia tàng phương - Nhục đậu khấu tán)
Nhục đậu khấu, Bột cốt chi, Ngũ vị tử, Ngô thù du. Tất cả các vị nghiền nhỏ, sinh khương 8 lạng, táo đỏ 50 quả, dùng nước 1 bát nấu gừng táo, bỏ gừng, nước cạn thì lấy thịt táo viên như hạt đồng, mỗi lần uống 50-70 viên. (Nội khoa trích yếu - tứ thần hoàn).
Nhục đậu khấu 2 quả, dấm gạo hòa bột miến gói kín, đặt trong tro nước khiến vàng sém, cùng miến nghiền nhỏ, mỗi lần dùng 2-3g. (Tục truyền tín phương)
Nhục đậu khấu bỏ vỏ, nghiền nhỏ 1 lạng, nước gừng tươi, miến trắng 2 lạng. 3 vị trên hòa trộn miến làm bánh gói bột nhục đậu khấu nước chín vàng, nghiền nhỏ, mỗi lần uống 3g, lúc đói uống cùng nước cơm, ngày 2 lần. (Thánh tễ tổng lục - Nhục đậu khấu tán)
Nhục đậu khấu (bỏ vỏ) 1 lạng, Nhân sâm 1 lạng (Bỏ bẹ, đầu), hậu phác 1 lạng (bỏ vỏ thô, đồ nước gừng tươi, nướng chín thơm) thuốc trên tán thô, mỗi lần uống 3g, nước 1 bát to, sinh khương 1/2 phân, gạo tẻ 1 nắm, sắc còn 5 phân, bỏ bã uống thay nước. (Thánh huệ phương)
Làm ấm tỳ và vị, hoạt khí. Làm se ruột và cầm đi ngoài.
- Ỉa chảy mạn: Dùng phối hợp nhục đậu khấu với kha tử, bạch truật và đảng sâm.
- Ứ khí do tỳ, vị kém và tỳ, vị hàn biểu hiện: đau bụng và thượng vị, buồn nôn và nôn: Dùng phối hợp nhục đậu khấu với mộc hương, sinh khương và bán hạ.
Không dùng vị thuốc này cho các trường hợp ỉa chảy hoặc lỵ do thấp nhiệt.
Nhục đậu khấu gỏi đưa khí xuống, uống nhiều thì tiết khí, cứ vừa phải thì khí hòa bình
Nhục đậu khấu ôn trung bổ tỳ làm viên. Nhật Hỏa Tả bảo hạ khí, lấy ý tỳ được bổ mà giỏi vận hóa, khí tự xuống vậy. Không phải như Trần bì, Hương phụ nhanh tiết ra. Khiên nghĩa không rõ sự thực, nhấn đó bảo là không thể uống nhiều.
Nhục đậu khấu vị cay có thể tan, có thể tiêu, khí ấm có thể hòa trung thông sướng. Khí thơm tho, khí thơm trước vào tỳ, tỳ chủ tiêu hóa, ôn hòa mà cay thơm, cho nên mở vỵ, vỵ thích ấm cho nên vậy. Cho nên làm thuốc chủ yếu lý tỳ mở vỵ, tiêu thức ăn cách đêm, ngừng tiết tả.
Nhục đậu khấu là vật phẩm trung chính hòa bình, vận chuyển thức ăn cách đêm mà không tổn thương, không phải như chỉ thực, lac bạc tử có tôn chân khí. Hạ khí trệ mà không mạnh, không phải như hương phụ, đại phúc bì có tiết chân khí vậy. Ngừng tiết tả mà không sáp xít, không phải như kha tử, anh túc xác có yểm phục mà đóng vít tà khí ở trong vậy.
Thaythuoccuaban.com Tổng hợp
*************************
Thông tin trên Website :www.thaythuoccuaban.comchỉ có tính chất tham khảo. Người xem không được dựa vào để tự chữa bệnh.
Lương y Nguyễn Hữu Toàn . Địa chỉ: Số 482 lô 22C Đường Lê Hồng Phong, Đông Khê, Ngô Quyền, Hải Phòng. GP : 197GCN HNY SYTH