SUY HÔ HẤP

Khái niệm

Suy hô hấp là gì?

Suy hô hấp cấp là tình trạng bộ máy hô hấp không cung cấp đủ Ôxy cho tổ chức tế bào và loại trừ khí Carbonic ra khỏi cơ thể qua phổi.

Thiếu oxy máu kèm theo hoặc không kèm theo tăng CO2 máu. Thiếu oxy máu đơn thuần không có nghĩa là nhẹ hơn thiếu oxy máu có kèm theo tăng CO2 máu, có khi lại nặng hơn như trong hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS: acute respiratory distress syndrome).

Sinh lý bệnh

Hô hấp ở phạm vi phổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố:

Thông khí phế nang: 

Bằng thông khí toàn bộ trừ đi thể tích khoảng chết (VA= VT-DS). ở người bình thường VA=2,5

Tuần hoàn của dòng máu trong phổi: Q= 3,5 Tuần hoàn này phụ thuộc vào cung lượng tim.

Khả năng khuyếch tán khí qua màng phế nang – mao mạch.

Suy hô hấp có thể xẩy ra do rối loạn một trong ba yếu tố trên, hoặc phối hợp các yếu tố trên.

ở một số bệnh phổi nhất định, có thể có nhiều cơ chế gây suy hô hấp cấp. Ngược lại, có nhiều bệnh chỉ có một cơ chế chung. Thí dụ viêm phế quản phổi có thể vừa gây rối loạn thông khí vừa gây bloc phế nang – mao mạch. Bại liệt, hội chứng Guillain-Barre, nhược cơ, rắn hổ cắn, chứng porphyrre cấp, cơ chế gây suy hô hấp là do liệt cơ hô hấp.

Rối loạn thông khí:

Rối loạn thông khí là cơ chế thường gặp nhất trong suy hô hấp cấp. Giải quyết cơ chế này là một nhiệm vụ cấp bách của người làm cấp cứu.

+ Sự giảm thông khí phế nang toàn bộ: Thường do tổn thương trung ương hay ở các cơ, rất ít gặp ở các trường hợp bị bệnh ở lồng ngực và phổi, chỉ trừ trường hợp ngoai lệ ở những hoàn cảnh đặc biệt như tắc đường thở cấp tính, tràn dịch, tràn khí lớn màng phổi hai bên, gãy nhiều sườn… Biểu hiện ở những triệu chứng sau:

Lâm sàng : xanh tím, vã mồ hôi, nhịp thở tăng hoặc giảm.

Xét nghiệm : paCO2 tăng và paO2 giảm.

+ Giảm thông khí phế nang khu trú : có nhiều nguyên nhân gây giảm thông khí phế nang khu trú :

Viêm phổi : tưới máu tăng nhưng thông khí mất ở vùng viêm phổi, VA/Q dưới 0,8 (tác dụng đoản mạch), paO2 sẽ giảm.

Xẹp phổi : tưới máu bình thường nhưng thông khí mất ở vùng bị xẹp. VA/Q dưới 8; paO2 giảm.

Giãn phế nang : VA giảm, Q bình thường. VA/Q cũng giảm.

Trong các trường hợp này, paCO2 vẫn bình thường vì khuyếch tán nhanh qua vùng phế nang không hoặc ít bị thương tổn, paCO2 có thể bị giảm vì tăng thông khí.

Rối loạn thông khí – tưới máu:

Rối loạn thông khí – tưới máu thường gặp trong các đợt cấp của viêm phế quản mạn :

Có vùng giảm cả VA lẫn

Có vùng giảm VA nhưng Q vẫn bình thường.

Có vùng VA vẫn bình thường nhưng Q mất.

Cuối cùng paCO2 và paO2 giảm như trường hợp giảm thông khí phế nang toàn bộ.

Rối loạn khuyếch tán:

Điển hình là tình trạng bloc phế nang – mao mạch, được xác định bằng xét nghiệm: paO2 giảm, paCO2 vẫn bình thường vì CO2 khuyếch tán nhanh gấp 25 lần O2 qua màng phế nang mao mạch. Nhưng có khi tình trạng tắc đờm lại kèm theo giảm thông khí phế nang làm cho paCO2 tăng.

Bloc phế nang – mao mạch là cơ chế cơ bản trong ARDS và phù phổi cấp tổn thương.

Phân loại

Suy thở do tổn thương ngoài phổi:

– Do tổn thương các trung tâm hô hấp: ngộ độc bởi các thuốc bacbituric, thuốc phiện (mocphin, dolargan), chấn thương sọ não hay u não có phù não, chèn ép trung tâm hô hấp…

Lúc đầu chỉ có giảm thông khí đơn thuần, về sau có thêm ùn tắc đờm rãi, dịch dạ dày trào ngược. Suy thở có thể biểu hiện đột ngột bởi ngừng thở hoặc cũng có thể tiến triển rất êm ả. Trong chấn thương sọ não, có khi bệnh nhân thở nhanh (khi bị kích thích), cũng có lúc bệnh nhân quên thở. Xét nghiệm máu trên những bệnh nhân này, lúc đầu có thiếu ôxy và nhược thán nhưng về sau có thể có nhiễm toan hỗn hợp.

- Do tổn thương tủy: chấn thương, vết thương vào tuỷ, bệnh bại liệt. Diễn biến cũng giống nhý trên.

- Do tổn thương thần kinh ngoại vi hay thần kinh cơ: các bệnh viêm thần kinh (polynevrite, polyradiculo – névrite), các bệnh của cõ (myasthénie), do thuốc giãn cơ, hoặc một số thuốc kháng sinh.

- Do tổn thương ở lồng ngực: Ở nội khoa, có các bệnh uốn ván, nhiễm độc do strychnin với co cứng, co giật toàn thân gây ép lồng ngực. ở ngoại khoa, các chấn thương lồng ngực làm gãy nhiều s-ờn, điển hình là mảng sườndi động, có tràn khí phế mạc, có hô hấp đảo chiều. Ở đây có giảm hô hấp cộng với tắc đờm rãi, bệnh nhân bị thiếu ôxy và -u thán nặng, suy thở rất dễ chuyển sang không hồi phục.

- Hội chứng Pickwick và hôn mê do thiểu nãng giáp trạng: Hội chứng Pickwick hay giảm thông khí phế nang trên một người béo phì là một ví dụ mới về suy thở mà nguyên nhân ở ngoài phổi. Bệnh cảnh nổi bật là một người béo phì, luôn luôn ngủ gật, tím tái, thở theo kiểu Cheyne Stokes, có tâm phế mạn. Các thể tích hô hấp, thông khí gắng sức tối đa giảm, compliance giảm, sức làm việc của hô hấp tăng. Trong máu, paO2 giảm, paCO2 tăng. Hội chứng giảm hô hấp ở ngýời bị thiểu nãng giáp trạng cũng tương tự.

Các suy thở có nguyên nhân ở phổi:

Các rối loạn khuếch tán:

- Xơ phổi lan toả: Trên lâm sàng, khó thở là dấu hiệu nổi bật, thường rất nặng và lúc đầu chỉ xảy ra khi gắng sức, nhýng về sau sẽ trở thành liên tục. Thở nhanh đều và nông. Bệnh nhân gầy còm, đau vùng ngực, có thể có ngón tay dùi trống. Chẩn đoán dựa vào tiền sử, nghề nghiệp, lâm sàng, Xquang và kết quả thử máu, paO2 thấp, paCO2 bình thường. Các rối loạn trên đây đýợc điều chỉnh khi bệnh nhân được thở nhiều ôxy.

Hạn chế nền mao mạch phổi (nhu mô phổi): có giảm thời gian tiếp xúc giữa khí và máu, do đó cân bằng khí ở phế nang và máu không thực hiện được, đưa đến thiếu ôxy. Trên lâm sàng, bệnh nhân khó thở, có những cơn đau kiểu co thắt động mạch vành, ho và suy nhược, có khi bị khái huyết, X.quang : hình tim to, cung giữa động mạch phổi căng. Thông tim có tăng áp lực trong động mạch phổi.

– Sunt trong phổi: bình thường vẫn có một phần rất ít máu tĩnh mạch chạy trực tiếp vào động mạch mà không được ôxy hoá. Sunt sinh lý này xảy ra ở nhiều nơi: giữa tĩnh mạch phế quản và tĩnh mạch phổi, giữa động mạch phổi và tĩnh mạch phổi, giữa các tĩnh mạch Thibésius đổ vào tim trái. Trong một vài hoàn cảnh đặc biệt, sunt trong phổi có thể rất lớn và dẫn tới giảm bão hoà ôxy ở ngoại vi trong khi paCO2 vẫn bình thường hoặc giảm. Muốn chẩn đoán, cho bệnh nhân thở ôxy, mặc dù độ bão hoà ôxy lên tới 100%, paO2 vẫn thấp.

Các rối loạn cân bằng hô hấp – tuần hoàn:

- Viêm phế quản mạn tính: Đường hô hấp bị nghẽn, có thể có viêm phế quản phổi, áp xe, tắc phế quản lớn và bé, xẹp phổi. Bệnh nhân không còn hiệu lực hô hấp,Tiffeneau giảm rất nhiều. Thông khí gắng sức tối đa giảm, thể tích khí cặn tăng.

Đợt suy hô hấp cấp của COPD, ở hen ác tính

- Giãn phế

- Hen phế quản.

- Ứ đọng tắc đờm rãi trong ngoại

- ARDS: được bàn cãi nhiều trong những năm gần đây. Trên những bệnh nhân bị sốc chấn thương không có liên quan đến ngực và phổi, trong những ngày sau, xuất hiện khó thở, nhịp thở nhanh dần, đòi hỏi ôxy với nồng độ ngày càng Trên phim X.quang có những đám mờ rải rác ở hai phổi, lúc đầu riêng lẻ, về sau dày đặc và làm phổi mờ toàn bộ.

Thử máu, paO2 giảm nhiều, paCO2 lúc đầu giảm hoặc bình thường, về sau tăng. Compliance giảm. Cuối cùng, bệnh nhân chết.

Về sinh bệnh lý, có nhiều giả thuyết. Xét nghiệm bệnh lý giải phẫu có: phù kẽ, đông máu trong lòng mạch, viêm phế quản nhỏ, viêm phế nang, apxe nhỏ các phân thuỳ phổi, tắc đờm rãi.

Chẩn đoán bệnh suy hô hấp

Khám  lâm sàng

Khó thở :

Thiếu oxy máu kèm theo tãng hay không tãng paCO2 cũng đều gây khó thở.

+ Nhịp thở : có thể tãng trên 32 lần/phút, thường có co kéo cõ hô hấp phụ nhý trong viêm phế quản phổi. Có thể giảm dýới 12 lần /phút, không có co kéo do liệt hô hấp nguyên nhân trung ương nhý trong ngộ độc bacbituric. Phải chỉ định thở máy ngay vì nhịp thở sẽ chậm dần.

+ Biên độ hô hấp:

+ ở môi và đầu chi ngón. Khi Hb khử trên 5g/100 ml, SaO2 dýới 85g/l. Các đầu chi vẫn nóng, khác với sốc.

+ Không có xanh tím nếu thiếu máu.

+ Không có xanh tím mà đỏ tía, vã mồ hôi nếu tãng PaCO2 nhiều nhý trong đợt cấp của viêm phế quản mạn. Thường có kèm theo ngón tay dùi trống.

Rối loạn tim mạch:

+ Nhịp : thường nhịp nhanh xoang hay cõn nhịp nhanh ( flutter, rung nhĩ nhanh hoặc cõn nhịp nhanh bộ nối ). Rung thất thường là biểu hiện cuối cùng.

+ Huyết áp tãng hoặc hạ: giai đoạn đầu huyết áp th-ờng tãng cao, giai đoạn sau hạ dần, phải can thiệp ngay (bóp bóng, đặt ống nội khí quản, hút đờm, thở máy).

+ Ngừng tim do thiếu oxy nặng hoặc tãng paCO2 qúa mức cần cấp cứu ngay.

Có thể phục hồi nhanh nếu can thiệp trýớc 5 phút.

Rối loạn thần kinh và ý thức:

Não tiêu thụ 1/5 số oxy toàn cõ thể. Vì vậy não chịu hậu quả sớm nhất tình trạng thiếu oxy và tãng CO2 máu.

- Rối loạn thần kinh: giãy dụa, lẫn lộn, mất phản xạ gân xương.

- Rối loạn ý thức : li bì, lờ đờ, hôn mê.

Cận lâm sàng

Khám phổi:

+ Trong suy hô hấp nguyên nhân ngộ độc, thần kinh: nhiều rên ẩm, đôi khi thấy xẹp phổi.

+ Liệt hô hấp:

Liệt cõ gian sýờn: lồng ngực xẹp khi thở vào, cõ hoành vẫn di động bình thường

Liệt màn hầu: mất phản xạ nuốt và ứ đọng đờm dãi, dễ hít phải đờm dãi và dịch vị.

Liệt hô hấp thường dẫn đến xẹp phổi ( cần chỉ định mở khí quản và thở máy).

Tràn khí màng phổi dễ phát hiện khi mới vào viện nhýng dễ bỏ sót khi bệnh nhân đang thở máy. Hay xẩy ra trong quá trình thở máy hoặc sau khi đặt catheter dýới đòn.

Viêm phế quản phổi ở vùng sau phổi hay gặp ở những bệnh nhân suy hô hấp nằm lâu, không được dẫn lýu tý thế và thay đổi tý thế. Viêm phế quản phổi bệnh viện thường gặp ở bệnh nhân thông khí nhân tạo kéo dài, chiếm tỷ lệ 15-20%.

Xét nghiệm:

Chụp phổi:

Cần chụp phổi ngay tại giường bệnh cho tất cả bệnh nhân suy hô hấp cấp. Tuy nhiên khó có thể chụp điện cho một bệnh nhân thở nhanh, nằm trên giường hoặc một bệnh nhân hôn mê do ngộ độc bacbituric đang thở máy. Kinh nghiệm chụp phổi của chúng tôi nhý sau: cho bệnh nhân thở máy có tãng thông khí và oxy 100% hoặc bóp bóng qua mặt nạ trong 20 phút độ bão hoà oxy sẽ tãng lên nhanh chóng, nhịp thở sẽ chậm lại hoặc ngừng hẳn trong vài phút. Chụp phổi, ngay cả với máy chụp nửa sóng, vẫn có thể thực hiện được.

Xét nghiệm các khí trong máu:

-SaO2 (độ bão hoà oxy trong máu động mạch): bình thường bằng 95-97%.

SaO2 dýới 85% là có tím.

PaO2(áp lực oxy trong máu động mạch): bình thường ở người tuổi thanh niên là 95-96 mmHg, ở người trên 60 tuổi là Trong suy hô hấp cấp, paO2 giảm xuống dýới 40 mmHg (8kPa).

PaCO2(áp lực CO2 trong máu động mạch): bình thường bằng 40mmHg, có thể lên tới 80mmHg (10,7 kPa) trong suy hô hấp cấp hay hõn nữa. PaCO2 tãng trong giảm thông khí phế nang.

Xét nghiệm các khí trong máu cho phép phân loại suy hô hấp cấp ra làm hai nhóm chính:

Nhóm 1: giảm oxy máu không có tãng CO2PaCO2 giảm xuống dýới 40 mmHg (8 kPa).

PaCO2 bình thường, hoặc hạ thường kèm theo: kiềm hô hấp do tãng thông khí phế nang, hay toan chuyển hoá do tãng axit lactic.

Thí dụ: ARDS, sốc.

Nhóm 2 : giảm thông khí phế nang. PaO2giảm.

PaCO2 tãng.

Thường kèm theo nhiễm toan hô hấp hoặc nhiễm toan hỗn hợp (phối hợp với tãng axit lactic máu).

Thí dụ: liệt hô hấp, viêm phế quản phổi tắc nghẽn.

Nhóm 1 chỉ có giảm oxy máu không có nghĩa tiên lượng nhẹ hõn nhóm 2. Trong hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển ARDS, oxy chỉ khuyếch tán qua vách phế nang ở vùng lành, nên thở oxy với FiO2 = 1 nhiều khi cũng không đýa PaO2 trở lại bình thường.

Chẩn đoán bệnh

Chẩn đoán suy hô hấp cấp thường là dễ, đó là một chẩn đoán lâm sàng. Xác định thể loại suy hô hấp cấp có thể khó khãn hõn vì phải dựa vào xét nghiệm, đặc biệt là xét nghiệm khí máu là tiêu chuẩn chính để chẩn đoán xác định. Cách giải quyết tốt nhất là xác định nguyên nhân rồi từ đó tìm ra cõ chế sinh bệnh để quyết định thái độ xử trí. Chẩn đoán phân biệt cũng rất quan trọng để tránh việc xử trí không đúng.

- Tãng không khí ( không phải là khó thở) có trong toan chuyển hoá, ngộ độc aspirin, tổn thương thân não. Có trường hợp suy thận đã được mở khí quản.

- Nhịp thở Cheyne-Stokes hay gặp trong các trường hợp khác không phải là suy hô hấp nhý: suy tim, suy thận, tai biến mạch máu não. Đôi khi gặp trong ngộ độc opi (ở đây có chỉ định thở máy).

- Xanh tím và khó thở có thể do tràn dịch màng tim gây ép tim, thiếu vitamin B1 (thường mất phản xạ gân xương).

- Bệnh não do suy hô hấp cấp có thể nhầm với viêm não có suy hô hấp cấp. Sốt rét ác tính lại thường có biến chứng phổi làm bệnh nặng thêm (thường bị bỏ qua). 

Biến chứng:

Tỉ lệ tử vong ở bệnh nhân suy hô hấp giảm ôxy máu từ 40-60%, suy hô hấp tăng CO2 máu cấp 10-26%.

Tại phổi

Nhồi máu phổi (1/4 bệnh nhân suy hô hấp ở phòng điều trị tích cực, chẩn đoán khó), chấn thương áp lực (tràn khí ở mô kẽ phổi, tràn khí màng phổi, tràn khí dưới da, tràn khí trung thất…), xơ phổi (sử dụng ôxy nồng độ cao kéo dài), nhiễm trùng (tỉ lệ viêm phổi có thể tới 70%, đặc biệt trên bệnh nhân với hội chứng suy hô hấp ở người lớn).

Tim mạch

Hạ huyết áp, giảm cung lượng tim, rối loạn nhịp, viêm màng ngoài tim, nhồi máu cơ tim cấp.

Tiêu hóa

Xuất huyết, giãn dạ dày, liệt ruột, tiêu chảy, tràn khí phúc mạc, loét do stress (thường xảy ra trong chấn thương, sốc, nhiễm trùng, suy thận, suy gan).

Nhiễm trùng

Nhiễm trùng đường tiểu, nhiễm trùng huyết. Nhiễm trùng bệnh viện làm tăng thời gian nằm viện và tăng tỉ lệ tử vong.

Thận

Suy thận cấp do thiếu nước, hoại tử ống thận cấp do hạ huyết áp (10-20% ở phòng điều trị tích cực), rối loạn nước điện giải.

Dinh dưỡng

Giảm dinh dưỡng trên cơ quan hô hấp và toàn thân, những biến chứng liên quan đến dinh dưỡng qua đường miệng và đường tĩnh mạch.

Đông y chữa suy hô hấp

(呼吸窘迫综合征)

Suy hô hấp là tình trạng phổi không hấp thu đủ lượng ôxi cần thiết cho cơ thể. Suy hô hấp cấp thường gặp ở trẻ nhỏ, nguy cơ tử vong rất cao, nên điều trị bằng y học hiện đại. Suy hô hấp mãn thường bắt nguồn từ các bệnh về phổi và phế quản như viêm phế quản mãn, hen phế quản, bụi phổi ... dẫn tới suy nhiều nhánh phế quản, giãn phế quản, phế nang, .. rồi suy hô hấp.

Biện chứng phân thể trị liệu:

Tà nhiệt ủng phế:

Tiếng thở gấp ngắn, khó thở, miệng môi tímtái , phiền não bất an, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch huyền sác.

  Pháp trị: Thanh nhiệt hóa đàm, giáng khí bình suyễn.

  Phương thuốc: Chích ma hoàng 10 g, hạnh nhân 10 g, sinh thạch cao 60 g (sắc trước), sinh cam thảo 6 g, đình lịch tử 15 g, táo đỏ 15 g, tô tử 10 g, vàng cầm 10 g, đại bối mẫu 10 g, 6 toàn qua lâu 30 g, đan sâ 30 g, uất kim 10 g.

Phủ kết phế tý:

Triệu chứng: thở gấp thở nhanh, khó thở, miệng môi tím tái, tâm phiền bụng trướng, phiền nhiệt miệng khát,bất tỉnh hoặc mê man , đại tiện táo, lưỡi đỏ rêu vàng dầy bẩn, mạch hoạt sác.

  Pháp trị: Thông phủ công hạ, tả nhiệt cứu phế.

  Phương thuốc: Sinh quân 15 g (cho vào sau ), nguyên minh phấn 6, chỉ thực 10 g, xuyên phác 10 g, toàn qua lâu 30 g, đình lịch tử 15 g, tô tử 10 g, tang bạch bì 10 g, đan sâm 30 g, uất kim 10 g, cam thảo 6 g.

Nguyên khí bạo thoát:

Triệu chứng: hơi thở nông ngắn, miệng môi tím đen, sắc mặt tái nhợt, tứ chi xanh lạnh, mồ hôi lạnh đầm đìa, lưỡi tím, mạch vi nhược.

  Chữa pháp: Ích khí cố thoát, hồi dương cứu nghịch.

  Phương thuốc: hồng sâm 15 g, sinh hoàng kỳ 60 g, thục phụ tử 10 g, sinh long mẫu 30 g (sắc trước), đương quy 10 g, cam thảo 10 g, mạch đông 30 g, ngũ vị tử 10 g, đan sâm 30 g

Bài thuốc chuyên trị:

Theo Trung Quốc danh phương toàn tâp dùng bài: " Chứng dương lý lao thang" (Y tông tất độc) " Ôn đảm thang" (Tam nhân cực nhất bệnh chứng phương luận)

Chửng dương lý lao thang Nhân sâm 12 Bạch truật 9 Trần bì 6
Nhục quế 6 Hoàng kỳ 12 Đương qui 12 Ngũ vị tử 6
Chích cam thảo 6 Táo 4q Sinh khương 3 lát

Cách dùng: Sắc uống ngày 1 thang

Công dụng: ôn bổ tỳ phế

Ôn đảm thang Bán hạ 6 Chỉ thực 6 Chích cam thảo 3
Sinh khương 3 lát Trúc nhự 6 Trần bì 9 Phục linh 5
Đại táo 5q

Điều trị suy hô hấp theo tây y

Các biện pháp hồi sức hô hấp cần phải được thực hiện ngay lập tức, càng khẩn trương thì khả năng cứu sống bệnh nhân càng nhiều.

Dẫn lưu màng phổi:

Có chỉ định trong các hội chứng tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất và trong tràn máu, tràn dịch màng phổi. Thực tế lâm sàng cho thấy: dùng kim chọc hút tràn khí màng phổi không có kết quả. Phải dẫn lưu ở khoảng liên sườn 2 đường giữa đòn với ống bằng cao su hoặc chất dẻo, có đường kính 0,3 – 0,5mm, dẫn lưu kín, một chiều, vô khuẩn và có áp lực hút khoảng 20 – 35 mmHg (nếu là tràn khí). Trong trường hợp tràn khí lớn không có phương tiện dẫn lưu thì phải chọc bằng kim Petrob cải tiến để chuyển về cơ sở cấp cứu.

Trường hợp vỡ, rách phế quản, có tràn khí màng phổi lớn, dẫn lưu không có hiệu quả thì phải cấp tốc can thiệp phẫu thuật và đặt ống Carlens hoặc nội phế quản đẻ mổ.

Dù là tràn khí màng phổi ở những bệnh nhân nội khoa, vẫn phải dẫn lưu màng phổi.

Nếu có tràn khí trung thất, nhiều khi với dẫn lưu màng phổi cũng đủ, nhưng cũng có khi phải dẫn lưu trung thất, đi vào khoảng giữa khí quản và xương ức. Dẫn lưu màng phổi cũng có thể có chỉ định dự phòng trên những bệnh nhân bị gãy nhiều sườn, bị mảng sườn di động, trước khi được gây mê nội khí quản hay thở máy.

Tràn máu, tràn dịch màng phổi phải dẫn lưu bằng ống argyl ở gian sườn 8, 9 đường nách giữa.

Rút ống dẫn lưu trong vòng 48 giờ hoặc 72 giờ sau khi hết khí hoặc dịch.

Khai thông đường dẫn khí:

Khai thông đường dẫn khí là việc đầu tiên phải làm, phải xem xét không những cho các bệnh nhân có suy hô hấp cấp mà cho tất cả các bệnh nhân cấp cứu ngay từ giây phút đầu tiên tiếp xúc. Tuỳ theo nguyên nhân và mức độ, có thể áp dụng các thủ thuật sau đây:

+ Móc mồm, mũi, họng, lau sạch, hút sạch đất, cát, bùn, thức ãn, máu v.v…

+ Trong trường hợp có dị vật đường thở phải làm nghiệm pháp Heimlich để tống dị vật ra ngoài.

+ Dẫn lưu tý thế hút đờm dãi qua miệng, đặt canuyn Guedel hay Mayo để nâng lýỡi, đặt đầu thật ngửa ra đằng sau hoặc kéo lýỡi ra ngoài khi lýỡi bị tụt điển hình trong các chấn thương hàm mặt.

+ Luồn dây polyten qua khe sụn giáp nhẫn. Trên những bệnh nhân bị tắc đờm dãi nhiều mà hút không kịp và không hết, có thể luồn một dây polyten qua màng giáp nhẫn vào khí quản vào đưa sâu xuống carina để kích thích ho tống đờm rãi ra ngoài và qua đó bơm thuốc long đờm, kháng sinh vào đường hô hấp. Phương pháp này đơn giản và rất nhiều trường hợp, chỉ sau 24 – 48 giờ, 2 phổi đã được thông suốt; sau đó có thể rút bỏ dây. Nhờ phương pháp này, nhiều bệnh nhân tránh được mở khí quản.

+ Hút đờm dãi, máu mủ trong khí – phế quản. Có 2 cách hút:

- Hút mò: để bệnh nhân ngồi ýỡn ra đằng trước hoặc nằm ngửa, há mồm, thè lýỡi. Một tay thầy thuốc cầm gạc kéo lýỡi bệnh nhân ra trước, tay kia cầm ống hút đưa xuống gốc lýỡi vào thanh quản, khí quản và hút. Khi ống hút vào đúng đường hô hấp, bệnh nhân sẽ ho mạnh và không nói được. Chú ý hút nhanh và chỉ hút khi kéo ống ra, để khỏi bị ngạt cấp.

- Hút có đèn soi hoặc dùng đèn soi thanh quản: nâng tiểu thiệt, để lộ thanh quản, đưa ống hút vào sâu trong khí – phế quản và hút. Hoặc dùng ống soi khí – phế quản và hút (bronchoscopie aspiration).

Phương pháp soi hút : đặt bệnh nhân ngồi theo tý thế Fowler hoặc ngồi thẳng tuỳ theo mức độ suy thở. Phải gây tê bằng xylocain 2%. Trường hợp bệnh nhân còn tỉnh táo thì phải cho bệnh nhân an thần bằng valium hoặc đông miên nhẹ, cũng nhý đối với bệnh nhân suy thở nặng thì phải làm hô hấp viện trợ trong khi soi. Soi trực tiếp có thuận lợi là thấy rơ các tổn thương bên trong đường hô hấp, có thể hút sạch đờm dãi, máu, mủ ở tất cả các nhánh phế quản. Tuy nhiên đòi hỏi phải có kỹ thuật, phương tiện và kinh nghiệm

Đặt nội khí quản, mở khí quản là các thủ thuật cơ bản nhất đế khai thông đường dẫn khí.

Mở khí quản:

+ Có chỉ định khi:

- Có trở ngại ở đường hô hấp trên mà các phương pháp trên đây không giải quyết được, ví dụ co thắt thanh quản, phù nề thanh quản, viêm loét thanh quản (bạch hầu), vết thương thanh – khí quản.

- Bệnh nhân phải thở máy dài ngà

- Khi cần giảm khoảng chết để tãng thông khí phế

Kỹ thuật mở khí quản cũng làm theo kinh điển, tuy nhiên phải làm đúng kỹ thuật để tránh biến chứng sau mở nhý : hẹp khí quản, chảy máu và hoại tử thành khí quản.

+ Trong săn sóc bệnh nhân mở khí quản, cần đặc biệt chú ý:

- Kiểm tra xem ống có bị đẩy ra trước hoặc ra sau hay sang bên làm nghẽn hô hấp và viêm loét khí quản.

- Bảo đảm vô trùng tuyệt đối trong sãn sóc nhý: bệnh nhân được cách ly vào nơi vô trùng, các thầy thuốc sãn sóc phải đội mũ, mang khẩu trang và mỗi lần hút trong ống Krishaberg hoặc Sjoberg trong đường hô hấp, phải rửa tay sát trùng và mang gãng tay; dây hút cũng phải bảo đảm vô trùng.

Tuy đã chú ý các biện pháp nói trên, một số lớn bệnh nhân vẫn bị nhiễm khuẩn. Nhiều trường hợp sau ngày thứ 2 đã bị nhiễm tạp khuẩn, đến ngày thứ 5, thứ 7 đã có tụ cầu vàng (S. aureus) hoặc trực khuẩn mủ xanh (P. aeruginosa).

Đặt nội khí quản:

Đặt nội khí quản có chỉ định giống mở khí quản. Có 2 phương pháp đặt nội khí quản:

- Qua miệng.

- Qua mũi.

Phương pháp đặt nội khí quản qua miệng dễ đặt và nhanh, nhưng phải dùng đèn soi thanh quản, bệnh nhân có thể cắn ống và khó vệ sinh rãng miệng. Đặt qua mũi có thể làm mà không cần đèn soi, có thể để lâu hơn. Nhược điểm của phương pháp này là gây loét, chảy máu mũi, sãn sóc khó hơn và dễ bị tắc ống hơn.

Nhờ đặt nội khí quản, một số bệnh nhân không phải mở khí quản, tránh được các biến chứng do phương pháp này gây nên. Tuy nhiên dễ gây phù thanh quản, do đó đa số các tác giả chủ trương mở khí quản ngay trong ngày đầu, nếu biết trước cần phải thở máy dài ngày.

Hỗ trợ hô hấp, hô hấp nhân tạo:

Phương pháp này được thực hiện trên những bệnh nhân bị giảm thông khí.

+ Trước khi làm hô hấp nhân tạo, chú ý:

- Đặt thông dạ dày, đề phòng trào ngược.

- Mở thông màng phổi, nếu có nguy cơ tràn khí, tràn máu màng phổi.

- Đặt nội khí quản hoặc mở khí quản với ống Sjoberg.

+ Có nhiều phương pháp hô hấp nhân tạo. Các phương pháp thường làm là:

– Thổi ngạt: được làm trong sơ cứu ở ngoài bệnh viện, tại nơi xảy ra tai nạn. So với phương pháp nhân tạo bằng tay trước đây (Sylvester, Safar …) thổi ngạt tốt hơn nhiều vì:

- Đưa vào nạn nhân nhiều ôxy nhất.

- Có thể làm bất kỳ ở đâu, ai làm cũng được.

Kết quả cho thấy phương pháp này tuy đơn giản, nhưng có hiệu lực, và đã cứu được nhiều bệnh nhân bị ngừng tim, ngừng thở, nhờ thổi ngạt kết hợp với ép tim ngoài lồng ngực đã kịp thời đã rút ngắn được thời gian thiếu ôxy não, làm cho vỏ não được hồi phục hoàn toàn.

Hiện nay, có nhiều loại ống hình chữ S, nhiều loại mặt nạ bằng cao su, chất dẻo, qua đó có thể hà hơi cho bệnh nhân đề phòng được biến chứng lây bệnh truyền nhiễm. Các loại bóng ambu đã thay cho thổi ngạt. ở đây muốn làm hô hấp nhân tạo có kết quả, phải úp masque thật sát vào mũi và mồm bệnh nhân và phải đặt đầu bệnh nhân thật ngửa ra đằng sau.

– Thở máy (ventilation mecanique): được chỉ định khi có phương pháp hỗ trợ hô hấp thông thường không có kết quả.

Thông khí nhân tạo gồm: Thông khí nhân tạo xâm nhập và thông khí nhân tạo không xâm nhập.

Có 2 loại máy thở:

- Thở theo áp lực.

- Thở theo thể tích.

Máy thở theo áp lực lấy nãng lượng từ các bầu oxy hoặc khí trời nén dưới áp lực. Một hệ thống van được đóng và mở tuỳ theo áp lực ở trong phổi bệnh nhân

đưa khí từ bầu ôxy vào máy, vào bệnh nhân (khi áp lực trong phổi bệnh nhân lên cao ở một mức đã tính trước) hoặc khoá lại không để khí vào máy và bệnh nhân thở ra. Điển hình của các loại máy này là Bennelt, Newport, Servo…

Máy thở theo thể tích chạy nhờ một cơ điện làm quay một túi xếp đóng và mở theo chu kỳ và thể tích đã tính trước. Khi túi xếp lên hay xuống sẽ rút khí hoặc đẩy khí vào phổi bệnh nhân. Máy Engstrom, máy P05, P06… thuộc loại này.

Đối với trẻ em đặc biệt các trẻ sơ sinh và đang bú, phải có những loại máy đặc biệt có áp lực thấp và khoảng chết bé, như máy Losco (Hà Lan), Engstrom (mẫu trẻ em).

Trước khi chạy máy phải:

Kiểm tra xem động cơ điện có chạy tốt không, các van, túi xếp, dây dẫn khí, ống nối v.v… có kín không ?

Tính các thông số hô hấp, dựa theo biểu đồ Radford hoặc của Engstrom Herzog. Thông thường để thể tích khí lưu thông từ 10-12 ml/ kg, Tỷ lệ ôxy trong khi thở vào (FiO2) là 40% – 60% hoặc 80%.

Nên cho bệnh nhân các thuốc đông miên hoặc an thần khi đặt ống nội khí quản hoặc mở khí quản.

Khi cho bệnh nhân thở máy phải kiểm tra xem lồng ngực bệnh nhân có lên xuống theo nhịp thở của máy, xem bệnh nhân có thích ứng với máy hay không

Cần theo dơi tình trạng chung, mạch, huyết áp của bệnh nhân và đặc biệt là phải làm các xét nghiệm về khí máu: pH, paCO2 trong máu động mạch để điều chỉnh các thông số hô hấp cho đúng. Nếu bệnh nhân thở chống máy và sau khi đã kiểm tra thấy mọi việc chuẩn bị làm tốt, đường hô hấp được thông suốt thì phải:

- Tăng thông khí để gây nhược thán.

- Cho các thuốc đông miên nhý dolargan,

- Cho thuốc giãn cơ (bất đắc dĩ).

Việc theo dõi và săn sóc bệnh nhân thở máy khó hơn nhiều so với mở khí quản, trong này phải đặc biệt chú ý:

- Chống nhiễm trùng.

- Làm ẩm khí thở

Muốn như vậy, phải chú ý sát trùng máy thở, phải giữ vô trùng tuyệt đối trong công tác săn sóc bệnh nhân, lắp thêm mũi nhân tạo Toremaln hoặc dùng khí dung (aérosol) hay cho nhỏ giọt dung dịch kháng sinh, long đờm vào đường hô hấp.

Oxy liệu pháp:

Chỉ cho bệnh nhân thở khi thiếu ôxy, trường hợp vừa thiếu ôxy vừa ưu thán thì phải làm bệnh nhân thở tốt, tống hết CO2 thừa ra ngoài rồi mới cho thở ôxy.

- Các phương pháp thở oxy thường dùng là:

- Thở oxy qua thông đặt ở mũi.

- Thở qua mặt nạ.

- Thở oxy trong lều hoặc lồng ấp.

- Thở oxy cao áp.

Mỗi phương pháp có những ưu điểm, nhược điểm và chỉ định riêng của nó. Ví dụ: thở oxy qua mặt nạ được chỉ định trong trường hợp có phù phổi, trong các phổi ướt (wet lung); thở oxy cao áp thì có chỉ định trong các trường hợp thiếu oxy rất nặng mà các phương pháp khác không giải quyết được.

Cho bệnh nhân thở ôxy sẽ nâng được áp lực riêng phần của ôxy trong máu động mạch của bệnh nhân, nhưng cũng có thể gây một số biến chứng nhý mù mắt (ở trẻ sơ sinh), đau xương, dễ bị viêm phổi.

Rửa phế quản:

Là một thủ thuật dễ làm và có hiệu quả. Tuy nhiên cần phải chuẩn bị tốt bệnh nhân (thở oxy 100% ít nhất 20 phút trước). Bơm qua ống nội khí quản 20-30ml nước cất, luồn ống thông hút mềm, ít ra là hai cỡ (to và nhỏ) hút theo nhiều tý thế. Thỉnh thoảng cho bệnh nhân thở oxy hoặc bóp bóng. Thời gian không kéo dài quá 4 phút. Cần chú ý theo dơi mạch, huyết áp và tình trạng toàn thân. Có thể rửa phế quản nhiều lần trong ngày. Trong cơn hen phế quản ác tính, rửa phế quản qua ống nội khí quản, thủ thuật cơ bản kết hợp với việc thở máy.

Rửa phế quản kết hợp với tầm quất vùng ngực, kích thích ho là các biện pháp tích cực làm cho long đờm.

Chống nhiễm toan:

Truyền nhỏ giọt các dung dịch kiềm nhý natribicacbonat hay tham. Trong suy thở, bệnh nhân có toan hô hấp đơn thuần hoặc toan hỗn hợp. Rối loạn kiềm toan sẽ dẫn tới rối loạn tuần hoàn, rối loạn bài tiết ở thận v.v. Do đó việc sử dụng các dung dịch kiềm là cần thiết. Liều lượng natribicacbonat hay THAM được tính theo kết quả kiềm dý (BE) và trọng lượng cơ thể của bệnh nhân (ml dung dịch HNaCO3 7,4% = [BE] x 0,6 x P) hoặc (ml Tham 0,3M = [BE] x P), nhưng thông thường có thể cho 75ml natri bicacbonat 8,4% hoặc 450ml THAM 0,3M.

Các thuốc kích thích hô hấp:

+ Các thuốc kích thích hô hấp như: almitrin (vectarion), niketamit, lobelin, diamox, micoren v.v.. kích thích trung tâm hô hấp, làm cho bệnh nhân thở sâu, thở nhanh hơn, nhưng cũnglàm tãng nhu cầu ôxy của bệnh nhân, chỉ được chỉ định sau khi đường hô hấp của bệnh nhân được thông suốt và bệnh nhân phải được thở oxy. Các thuốc này có tác dụng tốt trên những bệnh nhân bị suy thở mạn tính, có đợt suy thở cấp. Trường hợp các trung tâm hô hấp bị ức chế bởi các thuốc bacbituric, các thuốc nhý mocphin, dolargan thì có thể dùng các thuốc đối kháng nhý bemegride, nalocphin.

+ Các thuốc dùng trong hồi sức hô hấp:

- Aminophylin (diaphylin), salbutamol, terbutalin có tác dụng tốt trong cơn hen phế quản. Các thuốc này cần hoà loãng trong 500ml glucoza 5% hoặc 10% truyền nhỏ giọt tĩnh mạch. Không nên tiêm tĩnh mạch nhanh có thể gây cơn nhịp nhanh (trên thất, rung thất).

- Corticoit chỉ có tác dụng trong một số cấp cứu cơn hen phế quản, phù thanh quản, phù phổi cấp tổn thương, hội chứng

- Các thuốc long đờm được dùng rộng rãi trong hồi sức hô hấp như: mucomyst, mucosolvan …

- Giá trị của các thuốc trong hồi sức hô hấp, nếu có tác dụng thì chỉ là hỗ trợ, quan trọng nhất vẫn là các thủ thuật được tiến hành kịp thời, thích hợp, có trình tự nhất định.

Sử dụng các kháng sinh có hoạt lực mạnh:

Suy thở và nhiễm khuẩn đường hô hấp thường gắn liền với nhau. Suy thở gây nhiễm khuẩn và nhiễm khuẩn gây suy thở. Điều trị nhiễm khuẩn phổi phế quản tốt nhất là các kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ thứ 3 kết hợp với nhóm aminosit hoặc nhóm quinolon thế hệ 2.

Tham khảo thêm về suy hô hấp cấp

Hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh

Căn bệnh này là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho trẻ sinh non. Các thống kê cho thấy, cứ 3 trẻ sinh trước 34 tuần, có 1 trẻ bị suy hô hấp. Tỷ lệ này ở nhóm sinh trước 28 tuần thai là hơn 80%. Nguyên nhân chính gây suy hô hấp sơ sinh là tình trạng xẹp phổi do thiếu chất surfactant..

Trong các tế bào phế nang, một loại có vai trò trao đổi khí, loại 2 chuyên tổng hợp và dự trữ surfactant. Hai loại tế bào này chỉ bắt đầu biệt hóa từ tuần thai thứ 24, chủ yếu vào khoảng tuần thứ 34. Do đó, những trẻ sinh non trước 34 tuần tuổi có nhiều nguy cơ bị xẹp phổi dẫn đến suy hô hấp do không có đủ chất surfactan.

Ngoài việc thiếu surfactant, một nguyên nhân khác khiến trẻ sơ sinh dễ bị suy hô hấp là cấu trúc phổi chưa hình thành đầy đủ (các phế nang chỉ bắt đầu hình thành từ tuần lễ thứ 30). Hậu quả là sự trao đổi khí có hiệu quả thấp vì nó xảy ra chủ yếu ở các tiểu phế quản. Ở trẻ sinh non, các cơ hô hấp cũng chưa phát triển đầy đủ, lồng ngực mềm nên phổi dễ bị xẹp.

Một số yếu tố nguy cơ gây bệnh khác:

- Di truyền: Ở một bà mẹ từng sinh con non tháng bị suy hô hấp, nguy cơ này ở lần sinh sau lên đến 90%. Căn bệnh suy hô hấp sơ sinh chiếm tỷ lệ cao ở người da trắng; trẻ nam dễ bị và bị nặng hơn trẻ nữ (vì androgen ức chế việc sản xuất surfactant).

- Mẹ bị tiểu đường: Mức đường huyết cao của mẹ khiến hàm lượng insulin của thai cao hơn bình thường. Insulin kìm hãm sự trưởng thành tế bào phế nang sản xuất surfactan, khiến tỷ lệ sinh con suy hô hấp của các bà mẹ tiểu đường cao gấp 6 lần những phụ nữ khác.

- Tổn thương chu sinh: Ngạt và xuất huyết trước sinh làm tăng nguy cơ suy hô hấp. Tình trạng thiếu ôxy máu và axit máu, tụt huyết áp sẽ ức chế sự tổng hợp surfactant, phá hủy tế bào phế nang chuyên làm nhiệm vụ trao đổi khí và mao mạch phổi, dẫn đến phù phổi, suy giảm chức năng surfactant. Ngoài ra, trẻ bị hạ thân nhiệt khi sinh cũng gây thiếu ôxy máu và axit máu, ức chế chức năng surfactant.

-Sinh mổ: Quá trình chuyển dạ phóng thích các hoóc môn nhóm catecholamin và steroid, kích thích sản xuất và phóng thích surfactant, dẫn đến tăng tái hấp thu dịch phổi qua hệ bạch huyết phổi. Nếu được sinh mổ lúc bà mẹ chưa chuyển dạ, trẻ dễ bị thiếu surfactant và có lượng dịch trong phổi cao.

Trẻ suy hô hấp có biểu hiện triệu chứng lúc sinh hoặc vài giờ sau sinh: thở nhanh (trên 60 lần/phút), thở rên, rút lõm ngực, tím tái (do thiếu ôxy máu), phập phồng cánh mũi cũng là dấu hiệu suy hô hấp. Trẻ dần dần đuối sức, dẫn đến nhịp thở chậm lại và ngưng thở.

Nguyên tắc điều trị suy hô hấp ở trẻ sơ sinh là dùng surfactant thay thế, hỗ trợ thở ôxy. Ngoài ra, cần áp dụng các phương pháp hỗ trợ như bảo vệ thân nhiệt, dinh dưỡng, hỗ trợ tuần hoàn và điều trị nhiễm trùng.

Các bài tham khảo về bệnh suy hô hấp

Bụi phổi, thuốc chữa bênh Bụi phổi...

Suy hô hấp, thuốc chữa bênh Suy hô hấp ...

suy hô hấp, thuốc chữa bênh suy hô hấp...

Viêm xoang dị ứng, Viêm xoang dị ứng trán ...

Các vị thuốc chữabệnh suy hô hấp

Tác dụng của Anh túc sác chữa suy hô hấp ...

Tác dụng của Khoản đông hoa chữa suy hô hấp ...

Tác dụng của Bách bộ chữa suy hô hấp ...

Tác dụng của Ngũ vị tử chữa suy hô hấp ...

Tác dụng của Long não chữa suy hô hấp ...

Tác dụng của Ngư tinh thảo, thành phần Ngư tinh ...

Các bài thuốc chữabệnh suy hô hấp

Bài thuốc hay - thiên gia diệu phương-chữa bệnh Hô hấp...

Bài thuốc Thần bí thang chữa suy hô hấp...

Bài thuốc Sài phác thang chữa suy hô hấp ...

Châm cứu chữa suy hô hấp

Dị ứng hô hấp, châm cứu chữa Dị ứng hô hấp

Tham khảo ý kiến thầy thuốc

Thần dược cho người đột quỵ

Thực phẩm cho người tiểu đường

DANH SÁCH CÁC BỆNH

Bệnh hô hấp

Bệnh gan mật

Bệnh thần kinh

Bệnh tiêu hóa

Bệnh tiết niêu

Bệnh tim mạch

Bệnh hạch tuyến

Bệnh hầu họng

Bệnh mắt

Bệnh tai

Bệnh trẻ em

Bệnh phụ nữ

Bệnh Nam khoa

Bệnh ngoài da

Bệnh ung thư

Bệnh cơ xương khớp

Bệnh khi có thai

Bệnh phổi

Bệnh răng miệng

Thông tin trên Website :www.thaythuoccuaban.comchỉ có tính chất tham khảo. Người xem không được dựa vào để tự chữa bệnh.

. Địa chỉ: Số 482 lô 22C Đường Lê Hồng Phong, Đông Khê, Ngô Quyền, Hải Phòng. GP : 197GCN HNY SYTH